Nhạc sĩ Phạm Duy chính thức trở về Việt Nam ngày
17/5/2005. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc
biệt. Báo chí trong nước ca tụng đó là ‘nhịp
cầu nối quê hương với người Việt xa xứ’, ‘niềm vui thống nhất lòng người’
còn bản thân nhạc sĩ Phạm Duy coi cuộc trở về này là ‘lá rụng về cội’. Bên cạnh đó, còn có những ý kiến phản đối của một
số người Việt tại hải ngoại, họ cho rằng ông đã về với phe cộng sản.
Trong bài viết này tôi gọi Nguyễn Lưu bằng ‘anh’ (vì cùng
tuổi) còn Phạm Duy là ‘ông’. Đây hoàn toàn không vì sự kỳ thị mà chỉ thuần túy
về tuổi tác cách biệt giữa hai người. Thêm một lý do nữa, Nguyễn Lưu là ‘đồng
nghiệp’ với tôi: anh viết cho báo Đầu Tư tiếng Việt ngoài Hà
Nội còn tôi phụ trách tờ Vietnam Investment Review (VIR) bằng
tiếng Anh trong Sài Gòn.
Đúng như tên gọi, Đầu Tư và VIR là
những tờ báo kinh tế được hình thành qua sự hợp tác giữa tập đoàn truyền thông
ACP (Australia) và Cơ quan Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (SCCI), sau này đổi
thành Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Nhà báo kiêm nhạc
sĩ Nguyễn Lưu
Nguyễn Lưu thường phụ trách mảng văn hóa – thể thao, lúc thì
ký tên Nguyễn Lưu, khi thì lại mang bút danh Ama Lâm. Chúng tôi được coi là
‘đồng nghiệp’ vì hai tờ Đầu Tư và VIR cùng nằm trong hệ thống
của hợp đồng hợp tác kinh doanh (business cooperation contract) giữa Việt Nam và
Úc.
Tuy nhiên, chúng tôi chỉ gặp nhau trong những chuyến công
tác khi tôi ra Hà Nội hay những chuyến vào Nam của Nguyễn Lưu. Tôi ra Hà
Nội những khi Tổng biên tập đi công tác nước ngoài cần có người duyệt các bài
báo viết bằng tiếng Anh trên VIR. Thời gian ở Hà Nội phải nói là bận bù đầu nên
tôi rất ít có dịp tiếp xúc với các phóng viên, có chăng chỉ là những câu thăm
hỏi xã giao.
Nguyễn Lưu là dân xứ Nghệ nhưng sống ở Hà Nội đã lâu nên nói
giọng Hà Nội chứ không ‘trọ trẹ’. Mãi sau này tôi mới biết anh xuất thân từ một
gia đình quyền thế với thân phụ là Giáo sư Nguyễn Xiển (1907–1997), một nhà
khoa học đồng thời cũng là một chính khách. Ông từng giữ chức vụ Tổng thư ký
đảng Xã hội Việt Nam (1956–1988)
và Phó chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam (từ năm 1960 đến 1987).
Giáo sư Nguyễn Xiển đã từng hợp tác với học giả Hoàng Xuân
Hãn nghiên cứu về lịch và lịch Việt Nam, và cùng các ông Hoàng Xuân Hãn, Đặng
Phúc Thông, Nguyễn Duy Thanh, Nguyễn Đình Thuỵ, Nguỵ Như Kon Tum ra báo Khoa
học phát hành toàn Đông Dương với mục đích truyền bá ý tưởng và phương
pháp khoa học, xây dựng văn hoá mới cho quốc dân về phương diện khoa học. Ông
mất ngày 9/11/1997, hưởng thọ 90 tuổi.
Con trai cả của cụ Nguyễn Xiển là Nguyễn Toán, Giáo sư đã
nghỉ hưu, và con trai thứ là nhà báo Nguyễn Lưu. Một người con rể của cụ Xiển
là ông Đỗ Quốc Sam (1929-2010), Giáo sư, Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hóa ra Nguyễn Lưu
về với báo Đầu Tư không phải là sự ngẫu nhiên mà có sự tính
toán.
Giáo sư Nguyễn
Xiển (1907–1997)
Nguyễn Hoàng Thụ (Phó tổng biên tập Tạp chí thể thao,
xuất bản tại Hà Nội) đã ca tụng Nguyễn Lưu “…hội tụ đủ từ chất trí tuệ của
lớp sĩ phu miền Bắc cho đến chất nghệ sỹ và lại có tư thế của một nhà thể thao…”.
Nguyễn Lưu luôn khẳng định nghề tay phải của mình là viết về thể thao. Các bài
viết về bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, điền kinh của Nguyễn Lưu, ngoài việc
xuất hiện trên báo ‘nhà’ Đầu Tư, anh còn viết cho Tuổi Trẻ, Thanh
Niên và nhiều báo khác… Anh cũng xuất hiện thường xuyên như một khách
mời trên các chương trình bình luận thể thao của đài truyền hình trung ương
(VTV) và đài truyền hình kỹ thuật số VTC.
Tôi còn nhớ, trong một bài phóng sự đăng trên báo Tết
của Đầu Tư, Nguyễn Lưu kể lại rằng anh đi cyclo trên đường Trần
Hưng Đạo Sài Gòn để đến một vũ trường trong Chợ Lớn… Tôi nhận xét: “Chi tiết
này không đúng vì đường Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn từ lâu đã cấm cyclo lưu thông…”.
Vẻ mặt của Nguyễn Lưu khi đó có vẻ ngỡ ngàng, phải chăng đó là một chi tiết hư
cấu không logic của người viết về một thành phố tương đối xa lạ đối với
mình!
Có thể nói, Nguyễn Lưu là cây bút ‘đa tài’. Xuất thân là một
vận động viên bóng rổ nhưng anh tốt nghiệp đại học với mảnh bằng cử nhân toán
Đại học Tổng hợp, từng đi dạy ở Đại học Tây nguyên trên Ban Mê Thuột, bút hiệu
Ama Lâm chắc là để nhớ lại một thời đã ở trên xứ Thượng?
Anh còn là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nan. Có lần tôi ra Hà
Nội đúng vào gần Tết, báo Đầu Tư tổ chức tiệc tất niên tại
Khách sạn Meritus (West Lake ). Nguyễn Lưu
trong vai trò của một MC đứng ra điều khiển tốp ca, tên của bài hát tôi không
nhớ rõ nhưng đại khái là kiểu ‘hành khúc’ của báo Đầu Tư, do chính
anh sáng tác. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe một bài hành khúc của nhạc sĩ
Nguyễn Lưu.
Bài hát không có gì đặc sắc nhưng cũng nói lên khả năng hiểu
biết về âm nhạc của Nguyễn Lưu. Cho đến khi Nguyễn Lưu viết bài Không
thể tung hô đả phá nhạc sĩ Phạm Duy trên báo Đầu Tư ngày
13/3/2006, tôi hoàn toàn thất vọng. Dưới đây là nguyên văn bài viết:
Không thể tung hô
Có thể nói, một trong những niềm tự hào, tự tôn của dân
tộc Việt Nam là
triết lý "đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại". Tuy nhiên,
"không đánh kẻ chạy lại" cần được hiểu thêm rằng, kẻ chạy lại là ai,
và "không đánh" có nhất thiết đồng nghĩa với việc xem người ấy là
thần tượng, là nhân vật tiêu biểu để đón rước trọng thể (Gạch
dưới của NNC)...? Tôi muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ Phạm
Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc "Ngày trở về" (Đêm
nhạc mang tên ‘Ngày trở về’ của Phạm Duy được tổ chức tại Nhà hát Thành phố,
Sài Gòn, năm 2006 – Chú thích của NNC)
Một người bạn, nhà văn Chu Lai đã tỏ ra tâm đắc với ý
tưởng này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới số mới nhất có đăng một bài viết,
với nội dung gói gọn: "Một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp,
khi Pháp rút lại theo Ngô Đình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ.
Và tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với giọng điệu “sặc mùi”
hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin
trở về!(Gạch dưới của NNC). Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng
đến như thế!".
Đất nước đang đổi mới, chúng ta chấp nhận việc khép lại
quá khứ để xây dựng tương lai, nhưng điều ấy không đồng nghĩa với việc bỏ quên
tất cả, từ những hy sinh gian khổ đến những bài học máu xương... Chúng ta cũng
không quên tổ tiên ta luôn tỏ rõ nghĩa khí, quyết không sợ xâm lăng và cũng
không trù dập kẻ thất trận. Tù binh giặc còn được cấp lương, thuyền để chúng
"ra đến bể chưa thôi trống ngực" hay "về đến nhà còn đổ mồ
hôi" (Cáo bình Ngô). Nhưng cái khái niệm ân nghĩa bốn bể ấy cũng có những
nguyên tắc và với trường hợp của Phạm Duy, chúng ta lại càng cần phải hiểu cho
rõ ngọn nguồn.
Nửa thế kỷ trước, khi còn là một "chú nhóc" tại
trường Thiếu sinh quân chuẩn bị qua Trung Quốc học tập, ở Việt Bắc, tôi đã cùng
bè bạn trong đơn vị hát những ca khúc rất hay của Phạm Duy, khi ấy đang là một
trong những cán bộ văn hóa của chính quyền cách mạng. Tôi đã thuộc lòng câu hát
"Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời..." và sau này,
lớn lên một chút mới hiểu ra rằng, cái tứ ấy, có gì giống với luận điểm của
Nguyễn Văn Vĩnh (truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, mà tiếng ta còn thì nước ta
còn - cách nói ấy là để biện minh cho việc ôm chân giặc xâm lược của Nguyễn Văn
Vĩnh và bè lũ bán nước). (Gạch dưới của NNC).Phạm Duy có những
tác phẩm làm say đắm lòng người, như Thiên Thai, Trương Chi, Nhạc tuổi
xanh, Quê nhà em (Gạch dưới của NNC)... Rồi sau đó là
các bài như Thuyền viễn xứ, Bà mẹ Gio Linh, Cây đàn bỏ quên, Nghìn trùng xa
cách... Khai thác chất liệu dân ca đồng bằng Bắc Bộ, khó có ai qua mặt Phạm
Duy. Bài Ru con, Phạm Duy viết ở Việt Bắc có câu "Mấy đời bánh đúc có
xương, mấy đời giặc Pháp có thương dân mình", chuyển từ điệu
"thứ" qua "trưởng" thật đắt, còn nhịp ba trong Quê
nhà em (Gạch dưới của NNC) lại rất hay, dí dỏm và tố cáo
giặc đốt nhà, phá đường...
Nhưng, ngay trong thời kỳ ấy, chất lãng mạn tiểu tư sản,
sợ khổ, sợ chết đã bộc lộ qua sáng tác của Phạm Duy. Khi ấy, dù còn bé, song
tôi đã biết bài Bà mẹ Gio Linh bị cấm, bởi có những câu mà khi hát lên, liệu
còn ai, còn bà mẹ nào dám để con đi bộ đội. Và chất đa tình cố hữu, ta thường
thấy ở giới nghệ sĩ, ở Phạm Duy được xem là nhược điểm. Và cái phải đến đã đến,
Phạm Duy "dinh tê", bỏ kháng chiến vào thành, lập ra ban nhạc
‘Đêm màu hồng’ (Gạch dưới của NNC) với Thái Thanh, Thái
Hằng, có cả Phạm Đình Chương, Duy Quang... Và từ đó trở thành tên tuổi hàng đầu
trong đám văn nghệ sĩ chống Cộng.
"Đỉnh cao" sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là
bài ‘Mùa thu chết’. Ở đó, tác giả đã công khai tư tưởng chống Cộng của
mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu
cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa
thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam (Gạch dưới của
NNC). Khi đất nước bị chia cắt, Phạm Duy đã vào Nam theo chính quyền
Ngô Đình Diệm, lần lượt đi sâu vào con đường chống Cộng và lên đến chức
Bộ trưởng Văn hóa(Gạch dưới của NNC). Nhưng, sự nghiệp âm nhạc
của ông ta vẫn càng lún vào "vũng bùn" phản quốc. Bài ‘Ru con’ đã
thay câu cuối cùng bằng “Mấy đời Cộng sản biết thương dân mình”. Nhạc tuổi xanh
đã bị biến chất để đi ngược lại điều đã ấp ủ của cả một thế hệ văn nghệ sĩ Việt
Nam đang lên đường đổi cả sinh mạng lấy tự do, độc lập. Và để khẳng định mình,
Phạm Duy liên tiếp cho ra đời những tác phẩm vừa chống Cộng, vừa bệnh hoạn.
Ngày miền Nam mới giải phóng, tôi có gặp TS Nguyễn Văn
Trung, nguyên giảng viên Đại học Sài Gòn. Trước khi di tản đi Mỹ (Gạch
dưới của NNC), ông Trung bất đắc chí đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện,
trong đó có lời miệt thị một nhạc sĩ có tài là Phạm Duy mà lại đi viết cả những
bài hát để ủng hộ sự loạn luân!? Chính TS Trung đã qua Mỹ dạy học (Gạch
dưới của NNC), còn nhạc sĩ Phạm Duy di tản sang Mỹ để trốn chạy trước sự trở
về của những người đã từng chung một chiến hào với ông ta. Tại Mỹ, Phạm Duy làm
nhiều người (trong đó có tôi) sôi sục căm thù, khi viết bài kêu gọi các nam
thanh, nữ tú đất Việt hãy xông lên, lấp sông Bến Hải (Gạch
dưới của NNC), giải phóng Việt Nam khỏi tay Cộng sản... Và bây giờ, khi đã
sắp đến lúc nhắm mắt xuôi tay, ông ta muốn trở về trong sự đón tiếp nồng hậu
của những người từng bị ông chà đạp về tinh thần!
Tôi đọc Nam Cao và tâm đắc với nhận
xét: "Những thằng chuyên ác chỉ có thể hết làm việc ác nếu chúng không còn
đủ sức để làm ác". Bây giờ, với Phạm Duy cũng là như vậy. Một Việt Nam
đang vươn lên, môi trường này đang sống động và có vị thế mới đã có thể làm mềm
lòng mọi kẻ vốn kỳ thị với dân tộc này, tất nhiên đủ sức làm "kẻ chạy
đi" mong được trở về, song, như đã nói trên, không thể có sự trở về như
một người hùng. Chia sẻ điều này, nhạc sĩ Tân Huyền cho hay, đó là điều kỳ lạ,
hiếm thấy, tuy ông bảo: "Bây giờ, tư nhân cũng có thể làm ra một trang web
để tôn vinh mình, nói gì...". Và tôi hiểu, tác giả ‘Cỏ non thành cổ’ làm
sao chấp nhận sự trở về trong thứ vinh hoa kiểu ấy, nó làm cho sự hy sinh của
những đồng đội, những nấm mồ liệt sĩ kia có thêm những nỗi đau thế thái.
Có một lần, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn trả lời báo chí, ông
khẳng định, không bao giờ đánh giá một nhạc sĩ dám dâng hiến tuổi trẻ trong đội
ngũ những người chiến sĩ, ngang bằng một tác giả không dám lâm trận và chỉ ngồi
trong lòng địch để than thân trách phận, hay ngợi ca một hạ trắng, thu vàng,
chứ đừng nói đến một tác giả đã nhảy vào lòng địch để chống Cộng, rồi sau này,
khi hết "đát" lại nói lời xí xóa. Tôi cam đoan không một nhạc sĩ cách
mạng Việt Nam nào không vui mừng trước nghĩa cử đầy nhân ái của đất nước, song
tất cả họ đều chung một suy nghĩ, rằng người trở về đâu phải ai cũng như ai.
Lời nói ấy của người nhạc sĩ - chiến sĩ, đã giúp tôi có thêm nghị lực, để nghĩ,
để nói và để thể hiện chính kiến, để không bị hòa tan trong những đợt sóng vàng
vọt đâu đây.
Ai muốn coi Phạm Duy là thần tượng, tùy ý, còn tôi, trước
sau xin nói không!
Nhạc sĩ Nguyễn Lưu
(hết trích)
Nguyễn Lưu (ngồi
giữa)
Bài viết Không thể tung hô của Nguyễn Lưu
chắc chắn có một số ‘nhạc sĩ cách mạng’ miền Bắc chia sẻ với ý kiến của tác
giả, nhất là những người vốn không ưa cái bóng quá lớn của Phạm Duy trong lãnh
vực này. Nói chung, đối với những nhân vật này, trong đó có Nguyễn Lưu, phải
chăng có sự ghanh ghét cá nhân.
Tại miền Nam, bài viết đã gây một luồng dư luận phản đối
kịch liệt, cụ thể nhất là Công ty Phương Nam, đơn vị tổ chức biểu diễn đêm nhạc
‘Ngày trở về’ và đồng thời là người
mua bản quyền khai thác các tác phẩm hợp pháp của nhạc sĩ Phạm Duy.
Phương Nam đã gửi văn bản đến các cơ quan thẩm quyền, từ Ban
Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Cục Bảo vệ An ninh Văn hóa Tư tưởng xuống đến Bộ
Kế hoạch & Đầu tư và Ban biên tập báo Đầu Tư cùng các cơ quan
thông tin đại chúng khác. Dưới đây là nguyên văn Văn bản của Công ty
Phương Nam :
TP Hồ Chí Minh, ngày 16.3.2006
Kính gửi:
- Ban Tư tưởng - Văn hóa TW
- Bộ Văn hóa - Thông tin
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Cục Bảo vệ an ninh văn hóa tư tưởng
- Ban biên tập Báo Đầu tư
Đồng kính gửi:
- UBMTTQ TP Hồ Chí Minh
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Thành ủy TP.HCM
- Sở Văn hóa - Thông tin TP.HCM
- Phòng Bảo vệ an ninh văn hóa tư tưởng Công an TP.HCM
- Các cơ quan thông tin đại chúng
Trên số báo Đầu tư số ra ngày thứ hai 13.3.2006 có đăng
bài ‘Không thể tung hô’ của nhạc sĩ Nguyễn Lưu viết về "trường hợp của
nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc Ngày trở về" diễn
ra tại Nhà hát Hòa Bình, TP Hồ Chí Minh. Mặc dù trong bài viết của mình, tác
giả không đề cập gì đến Công ty Văn hóa Phương Nam là đơn vị tổ chức biểu diễn,
nhưng với tư cách là người mua bản quyền khai thác các tác phẩm hợp pháp của
nhạc sĩ Phạm Duy, với trách nhiệm của đơn vị tổ chức đêm nhạc Ngày trở về,
chúng tôi xin bày tỏ một số ý kiến:
1. Đường lối đổi mới của Đảng trong hai thập niên qua đã
mang lại những thành tựu to lớn đầy sức thuyết phục. Chủ trương đại đoàn kết
dân tộc theo tinh thần Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đang thổi một luồng sinh
khí mới, động viên tinh thần yêu nước của tất cả mọi người Việt Nam không phân
biệt tôn giáo, chính kiến ở trong cũng như ngoài nước để cùng hướng tới mục
tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Những
luận điệu chống cộng cực đoan ở hải ngoại ngày càng trở nên lạc lõng. Nhiều
người bỏ nước ra đi nay lần lượt trở về góp phần xây dựng đất nước dưới hình
thức này hoặc hình thức khác. Ông Nguyễn Cao Kỳ, Phó tổng thống chính quyền Sài
Gòn cũ đã trở về. Đó là những minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của chủ
trương đại đoàn kết dân tộc.
Đối với những kẻ thù xâm lược, chúng ta cũng đang xếp lại
quá khứ để cùng hướng tới tương lai, nhưng đọc bài báo của nhạc sĩ Nguyễn Lưu,
nhiều người hẳn sẽ băn khoăn tự hỏi tại sao việc "xếp lại quá khứ"
đối với một bộ phận người Việt lại khó khăn đến thế? Khép lại quá khứ hoàn toàn
không đồng nghĩa với việc "bỏ quên tất cả" như ông Nguyễn Lưu nói. Và
cũng không thể xếp lại quá khứ theo kiểu lôi hết "ngọn nguồn" của một
người để phơi bày trên mặt báo như ông Nguyễn Lưu đã làm! Dù nhắm tới một đối
tượng cụ thể là nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng khi ông Nguyễn Lưu (dẫn lời nhà văn Chu
Lai) nói rằng "Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở
về" chắc chắn sẽ làm những người đã hoặc đang có ý định trở về chạnh lòng
và cảm thấy bị xúc phạm. Đó là lối nói kiêu ngạo vô trách nhiệm, gây mất lòng
tin vào đường lối, chủ trương của Đảng.
2. Việc Công ty Văn hóa Phương Nam tổ chức đêm nhạc ‘Ngày
trở về’ là một hoạt động bình thường của một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực
văn hóa, không nhân danh một sự kiện gì, không nhằm tôn vinh thần tượng và cũng
chẳng tổ chức "đón rước trọng thể". Ai có nhu cầu thì mua vé vào xem.
Thế thôi. Mọi hoạt động kinh doanh của Công ty Văn hóa PhươngNam liên quan
đến nhạc sĩ Phạm Duy đều tuân thủ đúng pháp luật.
Nhạc sĩ Phạm Duy
Chúng tôi không chỉ tổ chức đêm nhạc ‘Ngày trở về’ mà
trước đó đã từng tổ chức những chương trình biểu diễn nghệ thuật khác. Cũng như
vậy, chúng tôi không chỉ liên kết xuất bản và phát hành những tác phẩm của Phạm
Duy được Bộ Văn hóa - Thông tin cho phép mà chúng tôi còn từng liên kết với các
nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân và một số nhà xuất bản khác để
tổ chức những tủ sách với hàng trăm tác phẩm viết về cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong đó có cả những tác phẩm của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Văn Tiến Dũng và các tướng lĩnh khác như Nguyễn
Quyết, Trần Văn Trà; của các nhà văn hóa lớn như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Văn
Huyên, Ngô Tất Tố, Huy Cận, Hà Văn Tấn, Trần Văn Khê; gần trọn bộ tác phẩm của
các nhà văn thuộc nền văn học cách mạng như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn
Quang Sáng... và cả một số tác phẩm của nhà văn Chu Lai.
Bài viết của nhạc sĩ Nguyễn Lưu không mang tính phê bình
học thuật, lại đăng tải trên một tờ báo chuyên về đầu tư, vì vậy, từ góc độ
kinh doanh, chúng tôi có quyền nghi ngờ đây là một sự cạnh tranh không lành
mạnh.
3. Một điều đáng tiếc nữa là trong lúc dẫn dắt người đọc
"hiểu cho rõ ngọn nguồn" trường hợp Phạm Duy, nhạc sĩ Nguyễn Lưu lại
đưa người đọc lạc vào những lỗ hổng kiến thức của chính mình. Lỗi tác giả một
phần, một phần do lỗi của tòa soạn trong khâu biên tập. Chúng tôi xin nêu một
vài thí dụ: Nhạc sĩ Nguyễn Lưu viết:
"... Ở Việt Bắc, tôi đã cùng bè bạn trong đơn vị hát
những ca khúc rất hay của Phạm Duy... Tôi đã thuộc lòng câu hát "Tôi yêu
tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời..." và sau này, lớn lên một chút mới
hiểu ra rằng, cái tứ ấy, có gì giống với luận điểm của Nguyễn Văn Vĩnh (Truyện
Kiều còn thì tiếng ta còn, mà tiếng ta còn thì nước ta còn - cách nói ấy là để
biện minh cho việc ôm chân giặc xâm lược của Nguyễn Văn Vĩnh và bè lũ bán
nước)".
Thứ nhất, câu nói nổi tiếng (và cũng bị nhiều tai tiếng):
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn" không phải
của Nguyễn Văn Vĩnh mà là của Phạm Quỳnh (thân sinh của nhạc sĩ Phạm Tuyên, tác
giả ca khúc nổi tiếng ‘Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng’). Bài viết của
Phạm Quỳnh được đăng trên tạp chí Nam Phong, về sau được in lại trong Thượng
Chi văn tập. Tuy tiếng Việt của Phạm Quỳnh là tiếng Việt của đầu thế kỷ 20
nhưng không có lối hành văn "thì mà là" như tiếng Việt của nhạc sĩ
Nguyễn Lưu ở đầu thế kỷ 21!
Thứ hai, nếu chỉ nói quá đơn giản như Nguyễn Lưu thì
nhiều học sinh ngày nay sẽ không thể nào hiểu được vì sao Truyện Kiều được tôn
vinh như là một kiệt tác của văn học Việt Nam, nhưng khen Truyện Kiều thì lại
mắc cái tội "biện minh cho việc ôm chân giặc xâm lược"?
Ai cũng biết rằng, sinh thời Nguyễn Du là người theo phò
nhà Lê thời Lê Chiêu Thống, chống lại Tây Sơn, đã từng bị quân Tây Sơn bắt giam
3 tháng ở Nghệ An, sau theo phò Gia Long, ra làm quan với triều Nguyễn, nhưng
điều đó lại không liên quan gì đến việc đề cao Truyện Kiều "là để biện
minh cho việc ôm chân giặc xâm lược". Cũng như vậy, làm sao con cháu chúng
ta có thể hiểu được "Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời..." mà
lại bị ghép vào tội... phản quốc?
Phạm Duy: “Người
Hát Rong”
Ở một đoạn khác, nhạc sĩ Nguyễn Lưu viết: "Đỉnh cao
sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài "Mùa thu chết" (...) Ông đã
từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai
quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào
của dân tộc Việt Nam".
Độc giả, đặc biệt là những người từng ở miền Nam trước
năm 1975, ai cũng biết rằng bài ‘Mùa thu chết’ rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm
Duy là phổ thơ Apollinaire, một nhà thơ Pháp sinh năm 1880 và chết năm 1918.
Bài thơ của Apollinaire vỏn vẹn chỉ có 5 câu, mang tựa đề “L’Adieu” (Giã biệt),
chúng tôi xin ghi lại nguyên văn:
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte
souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur
terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
Tạm dịch:
Ta ngắt một cành thạch thảo
Em hãy nhớ cho mùa thu đã chết
rồi
Chúng ta không còn được nhìn
nhau nữa trên đời
Mùi thời gian đẫm hương thạch
thảo
Em hãy nhớ rằng ta vẫn chờ em
Nội dung bài thơ chỉ có thế, khi phổ nhạc vẫn giữ gần như
nguyên vẹn, chẳng liên quan gì đến cuộc Cách mạng tháng Tám của dân tộc chúng
ta xảy ra sau khi tác giả của nó đã qua đời 27 năm! Nếu lập luận theo kiểu
Nguyễn Lưu thì mọi người sẽ nghĩ sao về trường hợp Văn Cao với bài ‘Buồn tàn
thu’ và Phạm Trọng Cầu với bài ‘Mùa thu không trở lại’?
Trước đây, ngay ở miền Nam, bên cạnh những người ca ngợi
Phạm Duy cũng có không ít người không đồng tình với một số việc làm của Phạm
Duy, thậm chí có người đã viết cả một cuốn sách để phê phán Phạm Duy. Âu đó
cũng là chuyện bình thường. Ngay cả Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có lắm người
khen, kẻ chê "Bạc phận chẳng lầm người tiết nghĩa/Đoạn trường cho đáng
kiếp tà dâm" hay "Đàn ông chớ kể Phan Trần/Đàn bà chớ đọc Thúy Vân
Thúy Kiều" đó sao ? Nhưng suy diễn đến mức như ông Nguyễn Lưu thì chưa hề
có!
Là những người hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực
gắn liền với văn hóa, nhiều khi chúng tôi không khỏi âu lo khi thấy trong sinh
hoạt học thuật của nước nhà, một số người vẫn quen dùng vũ khí suy diễn, xuyên
tạc, chụp mũ chính trị để đẩy đối phương vào chỗ chết thay vì cùng tranh luận
minh bạch để tiếp cận chân lý. Văn hóa muốn phát triển cần có một nền học
thuật. Cái cách phê bình "cả vú lấp miệng em" như vậy đang gây ô
nhiễm nặng môi trường học thuật của chúng ta. Quá trình hội nhập của đất nước
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, vì vậy cần thiết phải loại ra khỏi đời sống học
thuật những cách ứng xử thiếu văn minh như thế.
Ngoài ra, trong bài viết của nhạc sĩ Nguyễn Lưu còn một
số chi tiết khác không chính xác, chẳng hạn: trong sáng tác của nhạc sĩ Phạm
Duy không hề có bài ‘Quê nhà em’, Phạm Duy chưa bao giờ được làm Bộ trưởng Bộ
Văn hóa của chính quyền Sài Gòn, ở Sài Gòn trước năm 1975 không hề có cái gọi
là "ban nhạc Đêm màu hồng", GS Nguyễn Văn Trung cũng chẳng phải di
tản đi Mỹ mà đi Canada theo diện đoàn tụ gia đình sau 1975, và GS
Nguyễn Văn Trung cũng không hề dạy học ở Mỹ.
Cuối cùng, chúng tôi nghĩ rằng báo Đầu tư là tờ báo chủ
yếu dành cho các doanh nhân, trong đó có những doanh nhân là người Việt ở nước
ngoài, một trong những đối tượng mà chúng ta đang mời gọi. Việc đăng một bài
báo có nội dung mạt sát một Việt kiều muốn về quê hương và đã được phép trở về
như nhạc sĩ Phạm Duy có thể sẽ làm một số người khác giật mình phân vân trước
sự chọn lựa nên hay không nên trở về để khỏi phải chuốc lấy những phiền toái
như trường hợp của nhạc sĩ Phạm Duy.
Trân trọng.
Tổng giám đốc Công ty Văn hóa Phương Nam
Phan Thị Lệ
(hết trích)
Nhạc sĩ Phạm Duy
(2005)
Phương Nam đã
phản đòn bằng những lý lẽ logic và những phân tích cặn kẽ những điểm sai trong
bài viết của Nguyễn Lưu. Nhiều độc giả cho là Nguyễn Lưu mắc phải nhiều ‘sai
lầm ngây ngô’ bên cạnh những ‘lỗ hổng kiến thức chết người’. Chắc hẳn tác giả
bài viết phải tự nghĩ lại và vấn đề ‘ai thắng ai’ đã quá rõ ràng.
Riêng tôi, có thêm một suy nghĩ, những cây bút như Nguyễn
Lưu chỉ nên viết những chuyện liên quan đến thể thao như bóng đá, bóng chuyền,
điền kinh… chứ đừng bao giờ ‘đá lộn sân’ sang các vấn đề lớn với tư cách là một
nhạc sĩ cố tình ‘đập phá’ một ‘tượng đài’ như Phạm Duy, người nhạc sĩ mà cả
nước phải công nhận… ‘lắm tài, nhiều tật’.
Về phương diện tình cảm, Phạn Duy là mẫu người ‘dễ bị lụy vì
tình’, điển hình là vụ scandal ‘ăn chè ở Nhà Bè’ với Khánh Ngọc mà báo chí miền
Nam lúc đó đã tốn không ít giấy mực. Vợ của nhạc sĩ Phạm Duy là ca sĩ Thái Hằng
(Phạm Thị Quang Thái, 1927-1999), bà cũng là chị của ca sĩ Thái Thanh (Phạm Thị
Băng Thanh), Hoài Trung và Hoài Bắc (nhạc sĩ Phạn Đình Chương, chồng của Khánh
Ngọc). Họ ca hát chung dưới tên Ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng một thời tại
miền Nam .
Ban hợp ca Thăng Long
Dù sao đi nữa cũng không thể phủ nhận được sự đóng góp lớn
lao của Phạm Duy đối với nền âm nhạc Việt Nam . Mặt khác, cũng không thể phủ
nhận tính chất “công thần” của những nhạc sĩ như Nguyễn Lưu đã đi theo ‘cách
mạng’ và đã có một quá trình, hy sinh cống hiến nhiều cho công cuộc ‘giải
phóng’ miền Nam .
Xét cho cùng, bài viết của Nguyễn Lưu chỉ đại diện cho một
thiểu số những ‘công thần’. Tuy nhiên, điều oái oăm, chính bản thân người viết
lại chưa đủ tầm vóc để được gọi là ‘công thần’ mà chỉ là một ‘công cụ’ của các
‘công thần’ thứ thiệt. Nguyễn Lưu có ý thức được điều đó?
===
Một số nhận xét của những người ‘trong nghề’:
Nhà nghiên cứu nhạc Georges-Étienne Gauthier:
“Sở dĩ cái tiếng Việt Nam có thể gợi
nơi tôi một chút ý tưởng hoà bình và đẹp đẽ, nhân ái và từ thiện, sở dĩ trải
qua nhiều tháng nhiều năm, tôi đã có thể yêu mến nước Việt Nam ít ra cũng như
yêu mến chính nước tôi, sở dĩ như thế trước hết và trên hết là chính nhờ Phạm
Duy và một số nghệ sĩ Việt Nam khác”.
(Trong cuốn Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy)
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý:
“Trong ‘gia tài’ của Phạm Duy, có
những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc.
Chẳng hạn như ‘Nghìn trùng xa cách,
người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười’… Công tâm mà nói,
trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để
đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ”.
(Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh,
người thầy của tôi).
Giáo sư Trần Văn Khê:
“Từ trước đến giờ, tôi chỉ thấy Mai
Văn Bộ, Lê Thương và Phạm Duy là đặt lời đẹp nhất - từ năm 1950 đến giờ tôi
không theo sát phong trào nhạc mới nên có thể có nhiều người khác đặt lời đẹp
mà tôi chưa biết - Có điều tôi chắc là trong hầu hết những bài hát của Phạm
Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên
thơ của những bài ca dao. Những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có
thêm tiếng đệm được phổ nhạc một cách tài tình”
(Trích bài viết Nhân xem trường ca ‘Con đường cái
quan’ của Phạm Duy)
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương:
“Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô.
Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của
một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày
đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam
như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung
Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt
Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong
thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang
một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong
gần nửa thế kỷ này”
(Trích bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)
Thi sĩ Nguyên Sa:
“Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất
ngây với Hoàng Cầm Ca, có
những tín đồ của Thiền Ca.
Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và
của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng
chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ
có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có
Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích
Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt
với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất
đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương”.
Nhạc sĩ Phạm Duy
với Hộ khẩu &
Chứng minh nhân dân
sau khi về lại
Việt Nam
===
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày
5/10/1921 tại Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường
được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh
là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn
sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam
et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc còn có
giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, và
cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... Năm 1942 ông có sáng tác đầu
tay Cô hái mơ. Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh
hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều.
Gánh hát này đưa ông đi rất nhiều miền trên đất nước, từ Bắc
chí Nam, khiến ông mở mang tầm mắt, ngoài ra tự nhiên cũng trở thành một trong
những nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Thời kỳ hát
rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ
Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhất là nhạc sĩ Văn Cao, người sau này
trở thành bạn thân thiết. Hàng nghìn sáng tác của Phạm Duy có thể chia ra làm
nhiều thể loại:
• Nhạc cách mạng: Sáng tác trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, nói lên sự căm giận của người dân quê đối với giặc cướp
nước, phá làng. Tiêu biểu có thể kể: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời ru,
Chiến sĩ vô danh.
• Nhạc quê hương: Một phần quan trọng trong
sự nghiệp của ông, gồm những bài ca ngợi quê hương đất nước, hình ảnh con trâu,
đồng lúa, cái cày... Nhiều bài rất quen thuộc với người Việt: Tình ca,
Về miền Trung, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Em bé quê...
• Nhạc tình: Tình yêu là một đề tài lớn
trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy. Nhạc tình có
khối lượng nhiều nhất trong kho nhạc đồ sộ của ông, có thể kể những bài được
giới trẻ trong Nam ngoài Bắc hát nhưHẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây
đàn bỏ quên, Phượng yêu, Kiếp nào có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em
đi, Tôi còn yêu tôi cứ yêu, Trả lại em yêu, Giết người trong mộng...
• Nhạc tâm tư: Ngoài viết về tình yêu trai
gái, tình yêu quê hương, thì những sự suy tưởng cao siêu hay nhớ nhung buồn nản
vẩn vơ cũng được Phạm Duy ghi lại thành nhạc, có thể kể đến Đường chiều
lá rụng, Bên cầu biên giới, Chiều về trên sông, Dạ lai hương, Viễn du...
Hay những bài nói lên tâm trạng phẫn uất trước nội chiến, cảm khái trước thế
thời như: Huyền sử ca một người mang tên Quốc.
• Trường ca: Những tác phẩm lớn khiến ông
có một địa vị chắc chắn trong nền tân nhạc Việt Nam : Con
đường cái quan, Mẹ Việt Nam ,
Hàn Mạc Tử, sau này là Minh họa Kiều, bản trường ca dài nhất và
hoàn thành lâu nhất của ông.
• Rong ca: Gồm 10 bài sáng tác năm
1988: Người tình già trên đầu non, Hẹn em năm 2000, Mẹ năm 2000, Mộ
phần thế kỷ, Ngụ ngôn mùa Xuân, Nắng chiều rực rỡ, Bài hát nghìn thu, Trăng
già, Ngựa hồng, Rong khúc.
• Đạo ca: Gồm 10 bài, phổ thơ của Phạm
Thiên Thư vào thập niên 1970: Pháp thân, Đại nguyện, Chàng dũng sĩ và
con ngựa vàng, Quán thế âm, Một cành mai, Lời ru bú mớm nâng niu, Qua suối mây
hồng, Giọt chuông cam lộ, Chắp tay hoa, Tâm xuân.
• Thiền ca: Gồm 10 bài, sáng tác vào thập
niên 1980: Thinh không, Võng, Thế thôi, Không tên, Xuân, Chiều, Người
tình, Răn, Thiên đàng địa ngục, Nhân quả.
• Tâm ca: Gồm 10 bài, thở than về những xáo
trộn trong cuộc sống người dân miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam sụp
đổ: Tôi ước mơ (thơ Thích Nhất Hạnh), Để lại cho
em (thơ Nguyễn Đắc Xuân), Tiếng hát to, Ngồi gần nhau, Giọt
mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta (ý thơ Nhất Hạnh), Ru
người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi. Ngoài ra còn
nhiều bài khác cũng theo hướng Tâm ca như Những gì sẽ đem theo về cõi
chết, Tôi còn yêu tôi cứ yêu.
• Tâm phẫn ca: Sáng tác sau Tết Mậu
Thân: Tôi không phải gỗ đá, Nhân danh (thơ Tâm Hằng), Bi
hài kịch (thơ Thái Luân), Đi vào quê hương (thơ Hoa
Đất Nắng), Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa... Ngoài ra còn một số bài
sáng tác cho phong trào du ca.
• Tục ca, vỉa hè ca: Gồm những bài ca lời
dung tục, chỉ có tác giả hát, không ca sĩ nào hát, đến nay đã thất truyền.
Bên cạnh những thể loại kể trên, còn có Tổ khúc Bầy
chim bỏ xứ, Tị nạn ca nói về tâm trạng và sự khó nhọc của người ly
hương; Hoàng Cầm ca phổ những bài thơ của thi sĩ Hoàng
Cầm; Hương ca sáng tác khi ông về ở Việt Nam..
.
Tập nhạc Phạm Duy
đầu tiên được phát hành tại miền Nam sau 1975
(Nhà xuất bản Trẻ
& Công ty Văn hóa Phương Nam, 2005)
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 8 – Thời mở cửa)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
***
17 Comments on Multiply
chackadao wrote
on Aug 3, '11, edited on Aug 3, '11
Nguoi VNAm nen hoc hoi nhung xa hoi da van hoa nhu My va
Phuong Tay, Van minh Phuong Tay khong phan biet ban tu dau toi, mien la co
tai va cong hien cho xa hoi
eg: Von Braun And The V2 Rocket, ky su Duc Quoc xa giup My chuong trinh NASA do bo Mat trang
eg: Von Braun And The V2 Rocket, ky su Duc Quoc xa giup My chuong trinh NASA do bo Mat trang
penseedl wrote
on Aug 4, '11, edited on Aug 4, '11
Chẳng ngờ ông anh là “thợ bút” của VIR! Nguyễn Lưu đúng là
đồng nghiệp đứt đuôi của anh rồi sao lại để trong ngoặc kép?
Nhạc của Phạm Duy là những tác phẩm hay và bất tử với thời
gian, đã yêu thích nhạc của PD thì đừng nên chấp nhất tánh "nông nổi"
của người nghệ sĩ; ví như yêu thưong một người thì phải chấp nhận hết vậy.
nguyenngocchinh wrote
on Aug 4, '11
penseedl said
“Nguyễn Lưu đúng là đồng
nghiệp đứt đuôi của anh rồi sao lại để trong ngoặc kép?”
Sở dĩ chữ “Đồng Nghiệp” được để trong ngoặc kép vì được dùng
một cách khiên cưỡng. Tôi không muốn người đọc nghĩ là... thấy người sang bắt
quàng làm họ!
thahuong82 wrote
on Aug 4, '11
Tôi rất thích nhạc Phạm Duy trong mọi thể lọai nhưng thích
nhất là Tình Ca vì lời hay, ý đẹp trong nhạc có hơi thơ (vì nhiều bài là thơ
phổ nhạc). Nhưng có lẽ vì tôi là người Á Đông nệ cổ nên tôi hòan toàn không ưa PD
con người thật của ông ta:
1- Trở cờ rất nhanh
2- Đam mê nhục dục không từ.....
3- Có tiền ai "sai "gì cũng làm (phổ thơ con cóc
của me Mỹ tự xưng Phật Sống).
Tóm lại với tôi PD là một con người không biết hoặc không
cần biết LIÊM, SỈ là gì cả…
nguyenngocchinh wrote
on Aug 4, '11, edited on Sep 15, '11
thahuong82 said
“Tôi rất thích nhạc Phạm Duy
trong mọi thể lọai nhưng thích nhất là Tình Ca vì lời hay,ý đẹp trong nhạc có
hơi thơ (vì nhiều bài là thơ phổ nhạc) Nhưng có lẽ vì tôi là người Á Đông nệ cổ
nên tôi hòan tòan không ưa PD con người thật của ông ta:1- Trở cờ rất nhanh
2-Đam mê nhục dục không từ.....3-Có tiền ai "sai "gì cũng làm (phổ
thơ con cóc của me Mỹ tự xưng Phật Sống).”
Tôi nghĩ giữa tác phẩm và con người thường có một khoảng
cách... phần của người thưởng ngoạn hoàn toàn có thể cân nhắc cả hai yếu tố
hoặc chọn một trong hai. Hồi xưa, tôi rất sốc khi nghe những từ ngữ như 'sức mấy mà buồn', 'bỏ đi tám...' hoặc
nghe scandal thuộc loại loạn luân giữa PD-KN...
Nhưng những lúc ngồi một mình hát nghêu ngao bỗng cảm thấy
rung động: ... Một yêu câu hát truyện
Kiều, lẳng lơ như tiếng sáo diều ơ diều làng ta, và yêu cô gái bên nhà, miệng
xinh ăn nói mặm mà à mà có duyên!!! Những lúc như vậy hoàn toàn không nghĩ
đến mặt trái của PD!!!
thahuong82 wrote
on Aug 4, '11
Scandal PD&KN chỉ thường thôi. Lọan luân thật sự là lấy
vợ của con trai mình JQ đến nổi hai đứa phải chia tay.
Anh nói đúng những bài thơ của Nguyển Tất Nhiên, của Phạm Thiên Thư v. v.. được PD phổ nhạc thì hay hết biết... thà như giọt mưa rớt trên tượng đá....ta hỏng tú tài...
Anh nói đúng những bài thơ của Nguyển Tất Nhiên, của Phạm Thiên Thư v. v.. được PD phổ nhạc thì hay hết biết... thà như giọt mưa rớt trên tượng đá....ta hỏng tú tài...
linalol wrote
on Sep 15, '11
thahuong82 said
“Scandal PD&KN chỉ thường
thôi. Lọan luân thật sự là lấy vợ của con trai mình JQ đến nổi hai đứa phải
chia tay.
Anh nói đúng những bài thơ của Nguyển Tất Nhiên, của Phạm Thiên Thư v. v.. được PD phổ nhạc thì hay hết biết...thà như giọt mưa rớt trên tượng đá....ta hỏng tú tài...”
Anh nói đúng những bài thơ của Nguyển Tất Nhiên, của Phạm Thiên Thư v. v.. được PD phổ nhạc thì hay hết biết...thà như giọt mưa rớt trên tượng đá....ta hỏng tú tài...”
Ôi khiếp!
penseedl wrote
on Aug 4, '11, edited on Aug 4, '11
Pensée rất thích nghe và hát nhạc Phạm Duy.
huynhhai wrote
on Aug 4, '11, edited on Aug 6, '11
Nhứng người thuộc lớp tuổi như ông Nguyễn Lưu được sinh ra
trong lòng "hậu phương lớn miền Bắc", được giáo dục "dưới mái trường
Xã hội Chủ nghĩa". Đặc điểm chung của lớp người nầy là kiến thức nửa vời,
lối suy nghĩ đầy định kiến, dù họ được học hành đàng hoàng và được cho là
"trí thức XHCN". Thêm vào đó, họ còn một đặc điểm nữa là kiêu ngạo
cách mạng hoặc "kiêu ngạo cộng sản". Đối với họ chỉ có cách mạng vô
sản và người cộng sản mới đáng kể, mới là "đỉnh cao trí tuệ của loài
người".
Sau 30/4/1975, ai đã tiếp xúc với lớp người đó mới từ miền
Bắc vào đều dễ dàng nhận thấy mấy đặc điểm vừa nêu. Lỗi không phải hoàn toàn do
họ mà do chính hệ thống và nội dung giáo dục nhồi nhét, tuyên truyền, bưng bít,
bóp méo sự thật hoặc thậm chí nói dóc (như chuyện Lê Văn Tám...) để phục vụ nhu
cầu chính trị của miền Bắc (giống như Bắc Hàn hiện nay).
Với thời gian và qua trải nghiệm tự thân, cũng như được đi
đây đi đó để mở rộng tầm nhìn, họ dần chuyển biến. Một số ít chân thật tự nhận
"hồi ấy mình ấu trĩ thật". Một số khác âm thầm "sửa sai",
cố phấn đấu hoặc đấu đá nhau để ngoi lên chức vụ cao, hoặc lao vào thương
trường để kiếm lợi trong nền kinh tế "theo định hướng XHCN", dù họ
không hề biết XHCN đang ở đâu và như thế nào, v.v....
Bài viết với nhiều sai lầm của Nguyễn Lưu một phần là hệ quả
tất yếu của một nền giáo dục nhiều khuyết tật, một chiều. Điều đáng nói thêm là
Ban biên tập của báo Đầu Tư, những
người có trách nhiệm đọc, duyệt trước khi cho in, họ cũng là hệ quả của nền
giáo dục ấy sao?
nguyenngocchinh wrote
on Aug 4, '11
huynhhai said
“Bài viết với nhiều sai lầm
của Nguyễn Lưu một phần là hệ quả tất yếu của một nền giáo dục khiếm khuyết,
một chiều.”
Tôi hoàn toàn đồng ý với những nhận xét của anh. Cũng vì thế
tôi đã dùng chữ “đồng nghiệp” trong ngoặc kép...
thahuong82 wrote
on Aug 4, '11
Nhưng theo thiển ý của tui dù là đồng nghiệp nhưng chưa hẳn là đồng chí. Tui ví dụ thuở Sinh Viên (trước 75) nhiều người là đồng môn với SV Huỳnh Tấn Mẩm (SG) hay SV Hòang Phủ Ngọc Phan, SV Nguyễn Đắc Xuân (Huế) đồng nghiệp Luật Sư, đồng tước phẩm. Linh Mục.. (không tiện nêu tên nhưng chắc ai cũng biết) nhưng mổi người có một chí hướng riêng chưa hẳn là đồng chí với nhau.
Nhưng theo thiển ý của tui dù là đồng nghiệp nhưng chưa hẳn là đồng chí. Tui ví dụ thuở Sinh Viên (trước 75) nhiều người là đồng môn với SV Huỳnh Tấn Mẩm (SG) hay SV Hòang Phủ Ngọc Phan, SV Nguyễn Đắc Xuân (Huế) đồng nghiệp Luật Sư, đồng tước phẩm. Linh Mục.. (không tiện nêu tên nhưng chắc ai cũng biết) nhưng mổi người có một chí hướng riêng chưa hẳn là đồng chí với nhau.
130353 wrote
on Aug 4, '11
tôi thích nhạc PHẠM DUY nhưng có lẽ vì những bài báo chỉ
trích ông về đời tư trước năm 75, và cuộc trở về của ông; tôi không thích ông. Tuy
nhiên đọc bài này ,tôi không biết NGUYỄN LƯU là ai nhưng xem ra anh này rất hồ
đồ và vị kỷ.
trieudong wrote
on Aug 13, '11
Kính gởi anh Chính,
Tôi không thấu hiểu nổi cảm xúc và nguyên nhân của anh khi cất công copy và paste bài viết ... cực kỳ tào lao nhảm nhí của... bậc sĩ phu - nghệ sĩ - thể tháo gia (sic!) Nguyễn Lưu.
Thưa anh, lời lẽ bần cố nông của Đ/c cu tí Nguyễn Lưu có xi nhê gì so với những lời chua chát - đắng đót - xót xa này của NS Phạm Tuyên, con giai cụ Phạm Quỳnh:
"Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng. Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng."
Tôi không thấu hiểu nổi cảm xúc và nguyên nhân của anh khi cất công copy và paste bài viết ... cực kỳ tào lao nhảm nhí của... bậc sĩ phu - nghệ sĩ - thể tháo gia (sic!) Nguyễn Lưu.
Thưa anh, lời lẽ bần cố nông của Đ/c cu tí Nguyễn Lưu có xi nhê gì so với những lời chua chát - đắng đót - xót xa này của NS Phạm Tuyên, con giai cụ Phạm Quỳnh:
"Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng. Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng."
(http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2009/5/52937.cand)
Thôi thì:
"....Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Gia tài của mẹ, để lại cho con. Gia tài của mẹ, là nước Việt buồn ..."
Trịnh Công Sơn, Gia tài của Mẹ.
Chúc anh khoẻ, và đang mong được đọc Thời Mở Lòng của anh...
Thôi thì:
"....Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Gia tài của mẹ, để lại cho con. Gia tài của mẹ, là nước Việt buồn ..."
Trịnh Công Sơn, Gia tài của Mẹ.
Chúc anh khoẻ, và đang mong được đọc Thời Mở Lòng của anh...
andropause wrote
on Aug 15, '11
Một lần nữa kiến thức của em lại được tăng thêm qua bài viết
của anh. Phần lý luận "tiếng ta còn nước ta còn" của 'đồng chí' Nguyễn
Lưu đọc không thể hiểu nổi!!! Viết cho có thì viết làm gì cho nhục!
nguyenngocchinh wrote
on Sep 6, '11, edited on Sep 6, '11
Tôi vừa nhận được email của một anh bạn thân từ Little
Saigon comment về bài viết này. Theo anh, đây là entry “ẹ nhất'”trong Hồi Ức Một Đời
Người. Xin cám ơn về những... "lời
chê" rất chân tình của một người bạn.
Dưới đây xin trích nguyên văn một vài đoạn mail của Người Bolsa:
"... Ng Lưu là môt văn nô vô danh tiểu tốt, không đáng biết. Phạm Duy (cũng như Ng Cao Kỳ) là một đống phân khô, cứ để yên thì còn khả trợ, chứ chọc vào hay đụng đến là thối hoăng xóm giềng. Tóm lại chẳng cần nói đến. Phí giấy, Rác tai.
Dưới đây xin trích nguyên văn một vài đoạn mail của Người Bolsa:
"... Ng Lưu là môt văn nô vô danh tiểu tốt, không đáng biết. Phạm Duy (cũng như Ng Cao Kỳ) là một đống phân khô, cứ để yên thì còn khả trợ, chứ chọc vào hay đụng đến là thối hoăng xóm giềng. Tóm lại chẳng cần nói đến. Phí giấy, Rác tai.
"Đã thế nhìn PD
hể hả khoe hộ khẩu mới lộn ruột làm sao.
Cầm vàng có thể đánh rơi,
Có tên hộ khẫu đời đời ấm no.
"...Trong những bài văn của NN Chính, tôi e rằng đây là bài ẹ nhất, làm suy giảm thương hiệu NNC mạnh mẽ và xâu sắc đã tạo dựng được lâu nay. Qua bài này, Chính hình như thiếu dứt khoát, bênh PD thì xem có vẻ nửa bênh nửa không, còn chỉnh NL thì cũng có vẻ tay đánh tay đỡ."
Cầm vàng có thể đánh rơi,
Có tên hộ khẫu đời đời ấm no.
"...Trong những bài văn của NN Chính, tôi e rằng đây là bài ẹ nhất, làm suy giảm thương hiệu NNC mạnh mẽ và xâu sắc đã tạo dựng được lâu nay. Qua bài này, Chính hình như thiếu dứt khoát, bênh PD thì xem có vẻ nửa bênh nửa không, còn chỉnh NL thì cũng có vẻ tay đánh tay đỡ."
thahuong82 wrote
on Aug 7, '11
Người Bolsa có nhận xét rất chí lý, sâu sắc tui ''nhất
trí" 100%, đồng ý thiệt tình chứ không phải các kiểu nhất trí ở xứ VN ta
ngày nay......!
kennytran wrote
on Sep 10, '11
Nhac PD co bai hay bai do, con nhan cach PD thi do hoan toan,
PD la mot loai con buon van nghe re tien.
Đọc lại thì càng không thích con người của Phạm Duy. Còn những gì ông Nguyễn Lưu viết, một phần là sản phẩm của giáo dục!
Trả lờiXóaXin lỗi cần viết rõ hơn, đây là một phần sản phẩm của giáo dục lập trường XHCN.
Trả lờiXóaChào anh Nguyễn Ngọc Chính, em cũng là người đã làm báo Đầu tư, đi khỏi Đầu tư năm 2003. Cuộc đánh nhau ở báo Đầu tư giữa ông Trí Dũng và ông Tuấn khiến em thấy ghê tởm và ra đi. Với Nguyễn Lưu, anh viết về hắn làm gì cho phí bút đi, anh viết về hắn thì đúng là làm cho hắn sang lên rồi. Gia đình Nguyễn Xiển và Hoàng Minh Giám là hai gia đình rất thân thiện, cho đến đời con. Đùng một cái, Nguyễn Lưu viết bài về ông Giám, khiến cho mọi người nghĩ là họ chắc có hận thù gì. Nói Nguyễn Lưu là sản phẩm nền giáo dục XHCN cũng không đúng. Chúng ta không thể chọn chế độ và thời gian được sinh ra, nhưng có thể chọn tư tưởng và nhân cách. Nguyễn Lưu là loại không có nhân cách, nói gì tư tưởng. Dĩ nhiên có thể phản đối việc tôn sùng Phạm Duy, nhưng cách phản đối đó là đặc trưng Nguyễn Lưu, viết về nhân vật nào cũng ném phân vào họ. Em đã thôi làm báo.
Trả lờiXóa