Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

Báo chí Sài Gòn thời VNCH (1)

Kể từ khi tờ báo đầu tiên - Gia Định báo - xuất hiện tại Sài Gòn từ năm 1865 dưới thời Pháp thuộc, nghề báo đã phát triển không ngừng với một đội ngũ chủ báo và người viết báo ngày càng nhiều và thị trường báo chí ngày càng đa dạng tại miền Nam trong suốt thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa (1954-1975).

Biến cố chính trị năm 1954 với cuộc di cư vào Nam của hơn 1 triệu người miền Bắc đã mang lại một sắc thái mới mẻ trong sinh hoạt văn nghệ của Sài Gòn nói chung và trong làng báo Sài thành nói riêng. Ở miền Bắc, báo chí chỉ dành cho giới trí thức, ngược lại, báo chí miền Nam đã ăn sâu vào tận sinh hoạt hàng ngày của người lao động. Người đạp cyclo, tài xế taxi, giới tiểu thương cũng có tờ nhựt trình để đọc những khi vắng khách.

Quầy bán báo

Thói quen đọc báo đã ăn sâu vào nếp sống của người Sài Gòn và đến khi có cuộc di cư của người Bắc, sinh hoạt báo chí lại nở rộ. Người ta thấy xuất hiện nhiều tờ báo mới như Tự Do, Ngôn Luận, Chính Luận… Người đọc báo cũng dần dần làm quen với những tên tuổi  mới như Thanh Nghị, Đặng Văn Sung, Từ Chung, Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Hải Thủy…

Tờ Tự Do quy tụ các tên tuổi như Tam Lang (chủ nhiệm), Mặc Thu (quản lý), Như Phong (thư ký tòa soạn) và một số nhà văn, nhà thơ “di cư” như Ðinh Hùng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Ðỗ, Tạ Quang Khôi… Phần nội dung có các mục đặc biệt như “Chuyện Hàng Ngày” do Tam Lang phụ trách, Ðinh Hùng viết thơ châm biếm “Ðàn Ngang Cung” với bút hiệu Thần Ðăng và một truyện dài dã sử nhiều kỳ mang tên “Kỳ Nữ Gò Ôn Khâu” với bút hiệu Hoài Ðiệp Thứ Lang. Tự Do còn có mục hí họa, tranh châm biếm mang tính cách “tố cộng”. 

Theo Tạ Quang Khôi, sở dĩ tờ Tự Do bị đình bản vì lý do chính trị. Phủ Tổng thống thấy báo Tự Do được dân Bắc di cư ủng hộ thì không vui, vì nhóm chủ trương và nhân viên tòa soạn không ai có đạo Thiên chúa, lại không có ai là người miền Trung. Thế rồi báo đình bản ít lâu lại tái xuất hiện với chủ nhiệm và quản lý mới, đó là hai ông Phạm Việt Tuyền và Kiều Văn Lân. Hai ông này không những theo đạo Thiên chúa mà còn là nhân viên phủ Tổng thống.

“Ông Như Phong vẫn làm thư ký tòa soạn, ông Nguyễn Hoạt vẫn là một nhân viên tòa soạn. Ông còn viết thêm mục “Chuyện Hàng Ngày” với bút hiệu Hiếu Chân. Mục này được đổi tên là “Nói Hay Ðừng”. Ngoài Hiếu Chân còn hai người nữa cũng viết trong mục này, là nhà văn đường rừng Tchya Ðái Ðức Tuấn. Bút hiệu của ông trong “Nói Hay Ðừng” là Mai Nguyệt. Người thứ ba là Phạm Xuân Ninh, tức Hà Thượng Nhân, với bút hiệu Tiểu Nhã. Ông nói lái “Nói Hay Ðừng” thành “Nứng Hay Ðòi”. Mục này được độc giả rất hâm mộ vì lối viết sắc bén và châm biếm của các tác giả”.

Khi báo Tự Do của nhóm “người Bắc di cư” đình bản, một số cây bút chạy sang cộng tác với Ngôn Luận, một tờ báo được chính phủ Ngô Đình Diệm “ưu ái” qua vai trò “Giám đốc Chính trị” của Hà Ðức Minh. Về sau, Ngôn Luận có Từ Chung về làm thư ký tòa soạn.

Ngôn Luận có mảng thu hút thiến niên, nhi đồng qua mục “Bé Ngôn, Bé Luận” với các hí họa do họa sĩ Văn Ðạt vẽ. Bản thân tôi ngày đó cũng thích mục này và đã có lần được đăng một truyện ngắn trên phụ trang của Ngôn Luận. Về sau trên báo Chính Luận cũng có trang “Mai Bê Bi” dành riêng cho độc giả nhỏ tuổi. 

Ngôn Luận còn có mục “Giải đáp tâm tình” của Kiều Diễm Hồng, cái tên do Tạ Quang Khôi đặt ra dù sau này ông không còn phụ trách. “Thương hiệu” Kiều Diễm Hồng cũng “chạy” sang Chính Luận trong mục “Mai Bê Bi”.  

Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ qua cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 và nền Đệ nhất Cộng hòa cũng cáo chung. Sang đến thời kỳ Đệ nhị Cộng hòa, tờ Chính Luận của nghị sĩ Ðặng Văn Sung trở nên ăn khách khi Ngôn Luận đóng cửa và thu hút hầu hết các cây bút một thời viết cho Ngôn Luận. Thư ký tòa soạn Chính Luận là Từ Chung, người sau này bị cộng sản ám sát ngay gần nhà ở trường đua Phú Thọ. Chính Luận có bài xã luận dưới đây về thời Đệ nhất Cộng hòa:

“Dưới thời Nhu, Diệm, không biết có anh nào cắc cớ đã đẻ ra một đoàn thể có danh hiệu rất kêu: Công chức Cách mạng Quốc gia.

Có một số thư ký phục vụ tại những tỉnh nhỏ đã lâu năm, vì hoàn cảnh gia đình, xin thuyên chuyển đến tiếp tục công vụ tại những nơi thuận tiện cho họ hơn, nhưng đơn xin của họ chẳng bao giờ được xét tới, mặc dầu dưới thời “Cách mạng Nhân vị” người ta thường lập đi lập lại câu châm ngôn “Cách mạng Quốc gia nhằm thực hiện công bằng xã hội”.

Tức cười hơn hết là cựu Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần hồi đó đã trả lời trước Quốc hội bù nhìn, câu hỏi của một vài dân biểu về việc thuyên chuyển công chức: “Những nhân viên được chỉ định đến làm việc tại các tỉnh là những người phạm kỷ luật hoặc là những người phục vụ đắc lực tại địa phương”. Câu trả lời đầy mâu thuẫn đó đã làm cho một số người thắc mắc. Người ta tự hỏi: “Ngoài hai hạng công chức này, còn có thể có hạng công chức thứ ba phải ở lại các tỉnh nhỏ . . . muôn năm nữa không? Hạng công chức ấy phải chăng là những kẻ không có khả năng . . . “chè lá” cho những ông công chức khác có trách nhiệm về việc quản trị nhân viên công chức?”.

Chính Luận cũng đưa tin những trận hải chiến giữa VNCH và Trung Cộng từ ngày 17 đến 19/1/1974 [1]. Tờ báo "giật" nhiều tít nóng bỏng như: “VC [Việt Cộng] bác bỏ đề nghị VNCH lên án vụ TC [Trung Cộng] chiếm H. Sa”; “Giờ phút chót của Ty Khí Tượng Hoàng Sa chứng nhân 24 năm qua tại vùng tranh chấp”; “Nga lên án TC đánh chiếm Hoàng Sa, thúc LHQ buộc TC phải thương thuyết”…  Trên Chính Luận còn in hình di ảnh của HQ Thiếu tá Nguyễn Thành Trí, thuộc Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ 10), tử trận tại Hoàng Sa.

Chính Luận đưa tin về cuộc hải chiến giữa VNCH và Trung Cộng trên đảo Hoàng Sa

Dân gian có câu “nhà báo nói láo ăn tiền”. Câu nói mang tính cách miệt thị nghề báo nhưng nhiều nhà báo vẫn say mê với cái nghề… nói láo ra tiền. Cũng vì người đọc nhận xét về tài “nói láo” của nhà báo nên ký giả Vũ Bằng [1] đã viết hẳn một cuốn hồi ký mang tên “Bốn mươi năm nói láo” để kể lại chuyện 40 năm lăn lộn trong nghề báo. Ông viết trong tập hồi ký: 

“Người mẹ nào sinh con lại chẳng muốn cho con sau này ăn nên làm ra, có vai có vế nhưng Mẹ ơi, con đành chịu tội bất hiếu với mẹ: nếu trở lại làm người con cứ lại xin làm báo!”

Biến cố đặc biệt nhất trong làng báo Sài Gòn là chuyện “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối Sắc luật 007 của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sắc luật này quy định muốn ra nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (ngày đó số tiền này tương đương với khoảng 47.000 USD), báo định kỳ đóng 10 triệu. Số tiền này rất lớn khiến nhiều báo không có tiền ký quỹ đành phải đóng cửa. Cũng theo điều luật này, tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng thì sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn.

Đã có nhiều tờ báo bị đóng cửa, chủ báo bị phạt, bị tịch thu tiền ký quỹ, một số người còn bị tù. Theo thống kê không chính thức, khi đó có khoảng 70% người làm báo bị thất nghiệp. Trước tình hình bi đát này, các nghiệp đoàn ký giả Sài Gòn đã tập hợp lại để tìm ra một biện pháp nhằm cứu nguy cho báo chí.

Ký giả đi ăn mày

Hồi ký không tên của dân biểu kiêm nhà báo Lý Quí Chung cho biết: “…Có vài con số thống kê đáng chú ý như sau: từ vụ xử đầu tiên theo sắc luật 007/72 (tờ báo bị đưa ra Tòa án Quân sự Mặt trận Biệt khu thủ đô đầu tiên là Điện Tín ngày 18/8/1972) cho đến hết năm 1973 có tất cả 228 vụ tịch thu và truy tố báo chí. Trước đó khi chưa có sắc luật 007/72, từ tháng 12/1969 đến tháng 8/1972 có đến 5.000 vụ “vi phạm luật báo chí” cũ (luật 019/69)”.

Theo Lý Quý Chung, có 4 tổ chức báo chí khởi xướng nhưng chỉ cần nhìn vào những nhân vật dẫn đầu cuộc biểu tình thì biết ai đứng sau lưng sự kiện lịch sử của báo chí Sài Gòn. 

Ngoài chủ tịch Nghiệp đoàn Nam Việt Nguyễn Kiên Giang, các nhà báo lão thành như Nam Đình (chủ báo Thần Chung và sau là Đuốc Nhà Nam), Trần Tấn Quốc (chủ nhiệm tờ Tiếng Dội Miền Nam) còn có các nhà văn – nhà báo Tô Nguyệt Đình tức Nguyễn Bảo Hóa, nhà báo Văn Mại (cựu Tổng thư ký tòa soạn báo Buổi Sáng), nhà thơ Quốc Phượng, nhà báo Kiên Giang Hà Huy Hà… đều là nhà báo cộng sản chính cống hoặc ít ra cũng… “thiên cộng”.

Chính quyền biết trước cuộc xuống đường vì trong làng báo cũng có nhiều ký giả “giả”, ký giả chỉ điểm, ký giả “ăng ten”, ký giả làm việc cho trung ương tình báo… Tuy nhiên, họ vẫn không thể ngăn chặn cuộc xuống đường lấy hình ảnh “ký giả ăn mày”. Mỗi ký giả tham dự đều được phát một nón lá, một bị cói và một cây gậy giống hệt người ăn mày. Lực lượng chính hỗ trợ cho nhà báo là các dân biểu, nghị sĩ đối lập, trong đó có nhiều người đồng thời là nhà báo như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung và Lý Quý Chung.

Lý Quý Chung kể lại trong cuốn hồi ký đã dẫn: “Cuộc xuống đường xuất phát từ trụ sở của Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, nằm trên đường Lê Lợi, giáp đường Tự Do (nay là Đồng Khởi). Lộ trình dự định của đoàn biểu tình là tuần hành trên đại lộ Lê Lợi, nhắm thẳng vào chợ Bến Thành nơi có đông đảo quần chúng chờ đợi…

Thật sự trước các nhà báo, các dân biểu, nghị sĩ, nghệ sĩ, trí thức rất hiền lành, lực lượng cảnh sát cũng không hăng hái lắm để ra tay đàn áp nếu họ không bị khiêu khích hoặc kích động làm mất đi sự bình tĩnh. Do đó khi đám đông “ký giả đi ăn mày” rướn tới một cách quyết liệt là hàng rào cảnh sát tự vỡ ra và dòng người biểu tình cuồn cuộn đổ.

Ra đại lộ Lê Lợi như dòng sông đổ ra biển. Người dân hai bên đường hoan hô người biểu tình, nhiều người hào hứng nhập vào đoàn, nhất là thanh niên học sinh. Đến chợ Bến Thành, những người buôn bán trong chợ ào ra “bố thí”. Các ký giả ăn mày, nhét vào bị của chúng tôi đủ thứ bánh trái và quà tặng khiến cho hình ảnh ký giả đi ăn mày càng đậm nét..."

Ký giả ăn mày đụng độ với cảnh sát

Một trong những nhân vật nổi tiếng trong làng báo vào thập niên 1960 là nhà văn Chu Tử. Ông ra tờ Sống và báo thu hút một số lượng lớn người đọc với các tiết mục được ưa thích như “Ao Thả Vịt” (trên trang nhất), “Thơ Đen” và trang nhạc trẻ. Báo Sống thường chạy tít rất “giật gân” như: “66 triệu của Tống nha Ngân khố bay đằng nào…” hoặc “5 phút ‘hàn huyên’ với tử tội ‘chịu chơi’ Đặng Cao Sách”…

Nhật báo Sống 

Những cây viết cộng tác với Sống có các nhà văn, nhà báo Tú Kếu, Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng, Trùng Dương... Nhật báo Sống đăng tiểu thuyết nhiều kỳ (feuilleton) Loan Mắt Nhung của Nguyễn Thụy Long, từ đó nhà văn này trở thành nổi tiếng với công chúng.

Trong Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút” (nxb Văn Nghệ, California, 1999) Nguyễn Thụy Long tiết lộ: “Tác phẩm đầu tay của tôi là Loan Mắt Nhung ra đời và làm nên văn nghiệp của tôi được xuất hiện trên tờ báo Sống, do sự khuyến khích của ông Chu Tử… Tôi chính thức là ký giả của báo Sống, nhưng cũng đánh lẻ cho nhiều báo như một số anh em ký giả khác…”

Sau cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, Nguyễn Thụy Long bước vào nghề qua nhật báo Sống từ lúc tờ báo ra mắt cho đến ngày báo đình bản. Chu Tử có rất nhiều “con nuôi” và ông gả một trong số các con nuôi cho Nguyễn Thụy Long.

Vì bất đồng chính kiến, tòa báo Sống bị Lực lượng Tranh thủ Cách mạng của phe Phật giáo cực đoan tấn công năm 1966. Cũng vào thời điểm này, sáng ngày 16/4/1966, Chu Tử bị mưu sát khi vừa ra khỏi nhà, ông bị trúng đạn nhưng thoát chết. Nhiều người cho rằng cuộc khủng bố này do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chủ trương.

Tòa soan nhật báo Sống bị tấn công

Cuối thập niên 1960 báo Sống bị thu hồi giấy phép vì chỉ trích việc chính phủ cho Quân đội Hoa Kỳ toàn quyền sử dụng căn cứ Cam Ranh. Chu Tử ra tiếp tờ Sóng Thần vào tháng 10/1971 và bị rút giấy phép vào tháng 2/1975. Nữ ký giả Trùng Dương là người có liên quan trực tiếp đến Sóng Thần cho biết:

“Khởi thủy Sóng Thần là cơ quan ngôn luận của nhóm chống tham nhũng Hà Thúc Nhơn (tên một đại úy y sĩ đã bị sát hại vào năm 1970 trong khi đơn thương độc mã chống tham nhũng trong chính quyền Nha Trang). Nhóm này gồm Bác sĩ Phạm Văn Lương, Giáo sư Nguyễn Liệu, Hà Thế Ruyệt, Phan Nhự Thức, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên và một số người khác tôi không nhớ hết tên, và những người vì lý do riêng, không muốn công khai”.

Sóng Thần được hình thành là do đóng góp tiền bạc dưới hình thức mua cổ phần của các cổ đông và độc giả. Tờ báo có trụ sở đặt tại 133 đường Võ Tánh, Sài Gòn do Trùng Dương đứng tên làm chủ nhiệm, Chu Tử làm chủ biên, Nguyễn Đức Nhuận lo trị sự và Uyên Thao điều hành với tư cách tổng thư ký.

Sóng Thần chống tham nhũng ngay từ lúc đầu nhưng không chống chính phủ như một số báo chí ngoại quốc hồi ấy xếp loại là “anti-government”. Về sau này, sau khi nhật báo Đuốc Nhà Nam của ký giả lão thành Trần Tấn Quốc tự ý đóng cửa để phản đối luật báo chí mới 007/1972, Sóng Thần mời được bỉnh bút Ngọa Long về cho có mầu sắc người Miền Nam vì đa số thành phần biên tập là những người gốc miền Bắc di cư năm 1954.

Riêng về các nhà văn viết feuilleton cho Sóng Thần thì khởi thủy gồm có Nguyên Vũ, Cung Tích Biền, Nguyễn Thụy Long, Vũ Ngọc Đĩnh, Hoàng Hải Thủy… sau tăng cường thêm hai nhà văn nữ Túy Hồng và Nguyễn Thị Thụy Vũ.

Trùng Dương cho biết thêm về phiên tòa “lịch sử” ngày 31/10/1974, ngày Sóng Thần ra trước vành móng ngựa. Tờ báo chạy tít “Ngày dài vô tận”

“Tờ báo bị Bộ Nội Vụ của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đưa ra toà xử về tội đã đăng nguyên văn bản cáo trạng số 1 của Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng do Linh Muc Trần Hữu Thanh chủ xướng với sự tham gia của 300 linh mục. Tổng cộng có 205 luật sư tình nguyện ra toà biện hộ cho Sóng Thần và quyền tự do báo chí”.

"Ngày dài vô tận" của Sóng Thần

Chuyện lạ trong làng báo: chủ nhiệm Sóng Thần là nhà báo nữ Trùng Dương nhưng báo chí Sài Gòn còn “lạ” hơn khi có một chủ báo kiêm chủ bút cũng là phụ nữ: bà Bút Trà đứng tên tờ Sàigòn Mới nổi tiếng một thời trong làng báo Sài Gòn. 

Điều “lạ” hơn nữa là bà Bút Trà không phải là dân làm báo hay làm văn nghệ mà chỉ là một thương gia giàu có đã đưa Sàigòn Mới thành tờ báo ưa thích của giới bình dân.

Báo Saigon Mới

Bà Bút Trà, nhũ danh Tô Thị Thân, kết hôn với một ông nhà giàu người Tàu làm chủ khoảng 20 cơ sở kinh doanh nghề “cầm đồ”. Lý do bà nhẩy sang nghề làm báo cũng thật ly kỳ. Nhà văn Bình Nguyên Lộc [4] đã kể lại trong “Hồi Ký Văn Nghệ” như sau:

“Bà nhà giàu nầy [Tô Thị Thân], về sau, khi lấy chồng Việt Nam, đã xây cất biệt thự lớn ở Phú Nhuận, nhưng bà ấy nhứt định tiếp tục sống trong căn nhà liên-kế, tòa soạn của tờ nhựt báo Sàigòn Mới, chớ không chịu dọn về ngôi biệt thự đẹp, vốn bỏ không… Bà mang tục danh là “Bà chị Bồn binh”, chỉ vì bà bám mãi vào căn nhà thuê trước cái bồn cỏ tròn, nằm giữa tòa soạn của bà và chợ Bến Thành”.

Hồi đó báo chí Sài Gòn, có lẽ vì thiếu đề tài khai thác, nên “đánh hội đồng” nghề cầm đồ với lý do tiệm cầm đồ “hút máu dân nghèo”, chính phủ cần phải rút giấy phép! Bị đụng chạm nghề nghiệp nên bà Tô Thị Thân có nói với Tô Văn Giỏi, anh họ của Bình Nguyên Lộc, nguyên văn như sau: “Em Giỏi nè, em có biết ông nào viết nhựt trình thiệt giỏi, mà ăn lương rẻ hay không?”. Đầu óc của những người kinh doanh vào thời nào cũng thế: đòi hàng tốt mà giá lại rẻ!
 
Chính mắt bà Bút Trà xem lại bài vở của nhân viên tòa soạn trước khi đăng và cũng chính tay bà chọn bài lai cảo… Nhà văn Trọng Nguyên, Tổng thư ký tòa soạn Saigon Mới đã có lần tâm sự với Bình Nguyên Lộc: 

“Khi nào bà ấy quá bận về việc khác, bà ấy chỉ thị cho tôi làm việc, đúng y như bà đã làm. Có tôi, bà cũng cứ thủ vai chánh.  Bà chỉ cần tôi về mặt kỹ thuật mà thôi. Tôi chết đi, bất kỳ ai thay thế cũng được, bởi cứ còn bà.”

Bình Nguyên Lộc ngỏ lời muốn cộng tác với Saigon Mới, bà Thân từ chối thẳng thừng: “Tôi chỉ đăng bài mà chị bán cá có đọc cũng hiểu. Cậu viết khó hiểu, người bình dân không đọc đâu”

Người ta chửi bà, gọi bà là thím Xồi (ông chồng cũ người Tàu của bà có tục danh là chú Xồi) bà trả lời trên báo:  “Ừ, tôi tên là thím Xồi thì đã sao kia chớ? Thím ấy có làm hại xã hội bằng những bài vở khiêu dâm chăng? Có nêu gương đồi phong bại tục chăng?”

Bà Bút Trà còn bị chọc ghẹo  bằng các sửa bút danh của bà thành “Bút Tè”, báo chí tiếp tục “chửi” nghề cầm đồ, bà đáp ngắn gọn: “Hằng ngàn người khác cho vay cắt cổ, sao cứ bà họ Tô mà chưởi?”.  

Quả là trường hợp của bà chủ báo Bút Trà đi ngược hẳn với lẽ thường tình. Con buôn nào khi bị chửi trên báo cũng chỉ hành động theo một trong ba cách: (1) cắn răng mà chịu đựng khi nào bị báo chí chửi; (2) hối lộ cho các ký giả viết bài chửi bới; hoặc (3) thuê du côn đánh các ký giả đó.  Bà Tô Thị Thân là người đầu tiên nghĩ ra giải pháp thứ tư: ra tờ báo chửi lại dù chẳng viết được một câu văn nào. 

Saigon Mới còn có một nhân vật nữ nổi tiếng là bà Tùng Long, phụ trách mục Gỡ rối tơ lòng từ năm 1953, bà còn giữ mục Tâm Tình Cởi Mở trên báo Tiếng Vang (1962-1972). Hai mục “hỏi đáp tâm tình” này rất ăn khách trên báo và thu hút nhiều người đọc, nhất là phụ nữ vì chủ đề xoay quanh chuyện yêu đương, tình cảm.

Bà Tùng Long làm chủ bút Tuần báo Tân Thời (1935), Thư ký tòa soạn tuần báo Phụ Nữ Diễn Đàn, ngoài ra còn cộng tác với các báo Đồng Nai, Tiếng Vang, Tiếng Chuông, và các tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Mới, Phụ Nữ Ngày Mai, Duy Tân, Đông Phương… Bà Tùng Long xuất bản trên 60 tác phẩm trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến 1972.

Người ta thường ví “hiện tượng Tùng Long” tại Sài Gòn chính là trường hợp trước đó của nhà văn Quỳnh Giao bên Đài Loan với loại tiểu thuyết tình cảm trong đó có những trớ trêu, ngang trái đã khiến nhiều người đọc, nhất là phụ nữ, phải rơi lệ.
     
***

Chú thích:

[1] Ngày nay, báo chí "lề phải" Việt Nam chỉ đề cập đến những diễn biến trên Biển Đông qua từ mới “Tàu Lạ”, ám chỉ tàu Trung Cộng ngang ngược xâm phạm hải phận Việt Nam theo “Đường lưỡi bò” trong chiến lược thôn tính quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Họ sợ đụng chạm đến phương châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” do chính lãnh đạo Trung Cộng đưa ra năm 1999 để xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước Việt – Trung trong thế kỷ mới.

Theo Wikipedia, cuộc chiến trên Biển Đông năm 1974 giữa VNCH - Trung Cộng có tương quan lực lượng như sau:

Trong trận hải chiến giữa Trung cộng và VNCH, Việt Nam có 4 chiến hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), 1 đại đội hải kích thuộc Hải quân, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và 1 trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.

Phía Trung Cộng có 4 chiếm hạm trực tiếp tham gia trận chiến là Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 396, 2 ngư thuyền ngụy trang số 402 và số 407. Ngoài ra còn có lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến, trinh sát (không rõ số lượng). Sau khi trận chiến đã kết thúc, thì Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm đĩnh số 281 mới đến tăng viện.

Trung Cộng chiếm đóng toàn phần quần đảo Hoàng Sa sau những trận hải chiến từ ngày 17 đến 19/1/1974. Hải quân VNCH có 74 binh sỹ tử vong trong đó HQ-10 có 62 người chết bao gồm hạm trưởng Ngụy Văn Thà và Thiếu tá Nguyễn Thành Trí; HQ-4 có 3 người chết, HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương, HQ-16 có 2 người chết.

Theo tài liệu của Trung Cộng thì các tàu 274, 271, 389, 396 đều trúng đạn, 281, 282, 402, 407 bị hư hại trung bình. Trung Cộng bắt giữ 48 tù binh VNCH và cuộc trao trả tù binh diễn ra sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ quốc tế. (Theo Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_chi%E1%BA%BFn_Ho%C3%A0ng_Sa_1974)


Tham khảo thêm về Hoang Sa & Trường Sa qua các bài viết:


- "Tập san Sử Địa với chủ đề Hoàng Sa-Trường Sa" tại
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/11/tap-san-su-ia-voi-chu-e-hoang-sa-truong.html

- "Trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974" tại
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/11/tran-hai-chien-hoang-sa-nam-1974.html


Bích chương "Tây sa chiến ca" của Trung Quốc
nói về trận chiến ở Hoàng Sa

[2] Vũ Bằng (1913-1984), tên thật là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng dưới thời VNCH. Ông sở trường về viết truyện ngắn, tùy bút, bút ký... với các bút hiệu Tiêu Liêu, Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm...

Khoảng năm 1934-1935, Vũ Bằng nghiện á phiện rất nặng suốt 5 năm. Nhờ người cô ruột và nhờ vợ là Nguyễn Thị Quỳ thường xuyên săn sóc, khuyên nhủ, cộng với sự quyết tâm của bản thân nên ông đã cai được, rồi viết cả một cuốn tự truyện mang tên “Cai”.

Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954 để tiếp tục hoạt động văn chương - báo chí. Ông làm việc tại Việt Tấn Xã và cộng tác với nhiều tờ báo. Vũ Bằng có lúc nắm trong tay 3 tờ báo Đồng Nai, Sài Gòn MaiTiếng Dân, có lúc vừa viết cho Dân Chúng, làm tổng thư ký báo Tin Điện, lại vừa hợp tác với làm báo Vịt Vịt...

Vũ Bằng bị mang tiếng là nhà văn “dinh tê”, “quay lưng lại với kháng chiến” và “di cư vào Nam theo giặc” nhưng chỉ sau biến cố Sài Gòn thất thủ năm 1975 người ta mới biết ông là “VC nằm vùng” trong mạng lưới tình báo của Hà Nội. Vì nhiều lý do, trong đó có sự gián đoạn đường dây liên lạc, mãi đến sau này, ông mới được công nhận là người hoạt động ‘cách mạng’ và được truy tặng huân chương nhà nước.

Tác phẩm chính của Vũ Bằng gồm Miếng ngon Hà Nội (bút ký, 1960), Miếng lạ miền Nam (bút ký, 1969), Bốn mươi năm nói láo (hồi ký, 1969), Thương Nhớ Mười Hai (hồi ký, 1972)...

Vũ Bằng

[3] Chu Tử là bút hiệu của Chu Văn Bình (1917-1975), nhà văn, nhà báo nổi tiếng tại Sài Gòn vào thập niên 1960. Ông được biết đến là chủ nhiệm nhật báo Sống và là tác giả những cuốn tiểu thuyết có tựa đề chỉ một chữ: Yêu, Sống, Ghen, Loạn, Tiền...

Ông một thời dạy học ở Tư thục Phùng Hưng, Hải Phòng, về sau làm hiệu trưởng Trường trung tiểu học Lê Văn Trung ở Tây Ninh. Vào ngày 30/4/1975, trên đường di tản khỏi Việt Nam bằng tàu Việt Nam Thương tín, tàu trúng pháo B-40 khi qua cửa Cần Giờ và ông tử thương, được thủy táng ngay cửa biển.

Nhà văn Chu Tử

[4] Bình-nguyên Lộc (1915-1987) tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1915 tại làng Tân Uyên, Biên Hòa. Ông sinh ra và lớn lên trong một ngôi nhà chỉ cách bờ sông Ðồng Nai hơn một trăm thước, chính con sông này đã cung cấp nhiều chi tiết để hoàn tất một số tác phẩm như truyện ngắn Ðồng Ðội (trong Ký Thác), hồi ký Sông Vẫn Ðợi Chờ (viết và đăng báo ở California)….

BNL đang viết dang dở tập hồi ký “Nếu Tôi Nhớ Kỹ” thì qua đời. Trong tập đó có bài “Ông Bà Bút Trà” kể lại trường hợp nào ông bà Bút Trà gia nhập báo giới rồi kết hôn với nhau.  Bà Bút Trà giao công việc tìm người làm báo cho thơ ký kế toán của bà tên Tô Văn Giỏi, vốn là anh họ của BNL. Ông Giỏi nhờ BNL tìm kiếm người làm báo. BNL giới thiệu nhà thơ kiêm thầy thuốc Trương Quang Tiền, tuy chưa hề làm báo nhưng ông cũng nhận đảm trách tờ Sàigòn Họa Báo, tiền thân của Saigon Mới. Ít lâu sau, bà Bút Trà ly dị ông chồng người Hoa và nhà thơ này trở thành... ông Bút Trà. 

Từ năm 1948 BNL về Sài Gòn và sống bằng nghề viết báo, chuyên về tiểu thuyết feuilleton. Ông đã cộng tác với báo Lẽ Sống (qua bút hiệu Phong Ngạn, Phóng Ngang, Phóng Dọc, v.v…), Điện Tín, Ðời Mới, Tin Mới, Tiếng Chuông, Tin Sớm…

Tháng 10/1985 BNL định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình đoàn tụ gia đình và sống tại Rancho Cordova, một thành phố nằm trong thủ phủ Sacramento của tiểu bang California. Tại đây BNL từ trần ngày 7/3/1987 vì bịnh huyết áp cao. 

Tác phẩm của BNL nổi bật nhất có Hương Gió Ðồng Nai, Ðò Dọc, Nguồn gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam và nhiều tập truyện ngắn: Cuống Rún Chưa Lìa, Nhốt Gió, Ký Thác…


[5] Bà Tùng Long (1915-2006), tên thật Lê Thị Bạch Vân, là một nhà văn nổi tiếng với những tiểu thuyết tâm lý xã hội ở miền Nam trước 1975. Bà sinh ngày 1/8/1915 tại Đà Nẵng, học trung học ở trường Đồng Khánh, Huế, và trường Gia Long, Sài Gòn. Năm 1935 bà thành hôn cùng nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy.

Năm 1952, Bà Tùng Long dạy Pháp văn và Việt văn tại các trường Les Laurié, Tân Thịnh, Đạt Đức... nhưng vì lương không đủ sống, bà bắt đầu viết truyện đăng từng kỳ cho một số nhật báo. Vào thập niên 1960, các tác phẩm của bà rất thành công về mặt thương mại, vừa dạy học vừa viết báo, viết văn, thu nhập của Bà Tùng Long rất cao, nghe nói lên đến cả chục lượng vàng. Vào đầu thập niên 1960, bà giữ chức Tổng thư ký Hội Phụ Nữ Việt Nam Cộng hòa, đắc cử Dân biểu tỉnh Quảng Ngãi.

Về bút danh Bà Tùng Long, bà giải thích: “Các vị nho học của chúng ta có câu ‘Vân Tùng Long, Phong Tùng Hổ’, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp... Tôi tên Vân cho nên lấy bút danh Tùng Long. Và khi ký bút danh này, tôi thấy không trùng với ai, cho nên tôi dùng luôn đến nay. Vì ký bút danh Tùng Long, tôi sợ độc giả hiểu lầm tôi là đàn ông, cho nên tôi thêm chữ Bà vào để phân biệt.”

Một số tác phẩm nổi bật:
  • Bóng người xưa
  • Đời con gái
  • Hồi kí Bà Tùng Long
  • Một lần lầm lỡ
  • Mẹ chồng nàng dâu
  • Nẻo về tình yêu
Bà Tùng Long

***

2 nhận xét:

  1. Báo chí miền nam VN trước 1975 chịu ảnh hưởng của thể chế báo chí tự do, đặc biệt là Hoa Kỳ và không có những chủ trương cũng như chính sách văn hóa văn nghệ trong thời chiến tranh nên phải thừa nhận những phần tử cộng sản,chống đối,các phe phái...đã lợi dụng cũng như tận dụng mọi thời cơ để chống đối, làm suy yếu chính thể VNCH,gây rối loạn và khủng hoảng tinh thần chiến sỹ...nhất là trong những năm 1973, 1974 cho đến ngày 30/4/1975. Chính phủ đã phải chống đỡ trong những điều kiện khó khăn, phức tạp, vô cùng nan giải...để thỏa mãn với mọi yêu sách của các phần tử chống đối, các nhóm đối lập...và thêm nữa là sự thờ ơ vô trách nhiệm của ngay cả các viên chức chính quyền trước sự tồn tại của quốc gia. Những chủ thuyết hiện sinh, hưởng thụ, ăn chơi trụy lạc ...đã ngấm ngầm tàn phá tư tưởng của thế hệ trẻ và trưởng thành trong khi biết bao chiến sỹ đang hy sinh nơi chiến trường, những người nghèo, những nông dân...
    VNCH có nền báo chí phóng khoáng và tự do trong thời chiến, và sau khi kết thúc chiến tranh đã lộ mặt thật của nhiều phần tử CS, cái gọi là thành phần thứ ba...trà trộn...Đó là bài học hết sức cay đắng cho những người đã hiểu và từng sống dưới thời miền nam tự do.

    Trả lờiXóa
  2. Cháu thích bài này quá chú ạ.

    Hồi 2009 cháu cũng có mấy bài viết về lịch sử báo chí, ở đây: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/bao-chi-viet-nam-dem-truoc-doi-moi và http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/chuyen-lam-bao-o-sai-gon-truoc-1975

    Giá hồi đó cháu gặp được chú thì bài viết chắc sẽ nhiều tư liệu hơn nữa.

    Trả lờiXóa

Popular posts