Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Đọc “Bên Thắng Cuộc” (4) – chuyện bên lề

(Tiếp theo)

Đây là bài cuối cùng trong loạt bài Đọc ‘Bên Thắng Cuộc’. Bài viết này chỉ xoay quanh những câu chuyện nhỏ trong cuốn sách. Tuy là chuyện bên lề nhưng tôi cho rằng rất thú vị vì mang nhiều ý nghĩa trong giai đoạn lich sử của đất nước, từ năm 1975 cho đến nay.


Ngay sau ngày 30/4/1975, chính quyền mới muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân miền Nam. Họ đã liên tiếp tung ra nhiều chiến dịch thuộc quy mô lớn như cải tạo viên chức – quân nhân chế độ cũ, cải tạo công thương nghiệp, chính sách kinh tế mới… cho đến những chuyện nhỏ như đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng, không để râu tóc”.

Theo Bên Thắng Cuộc, tháng 10/1975, ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về “tư cách, tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đã đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”.

Ngay tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu tượng của chế độ mới như Karl Marx, Angel, Lenin và Mao Trạch Đông qua thơ để ta thán về sự “bất bình thường” của những người được mệnh danh là “giải phóng”. Trích từ Bên Thắng Cuộc:

Các-mác mà đến Việt Nam
Râu dài tóc rậm công an bắt liền
Các-mác cầu cứu Ăng-ghen
Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu
Truyền cho bốn biển năm châu
(Đến Việt Nam thì nhớ)
Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê- nin!

Cái hay trong thơ dân gian là dùng hình tượng Mao Trạch Đông vốn “mày râu nhẵn nhụi” để làm chuẩn cho những ai thích để râu còn Lenin “đầu hói” được lấy làm mẫu mực cho việc hớt tóc! Xem ra, khổ thì có khổ nhưng những nhà thơ đường phố vẫn còn chút khôi hài để cười cho quên cái khổ.

Về quần ống loe, tôi xin trích dẫn chú thích số [348] khá dài của Huy Đức: “Từ Đông Đức trở về, quần áo mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe vì nó đang là “mốt của toàn thế giới”. Một hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội thì bị công an ách lại và ngang nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến ngang hông.

Tức tối, ông Nghĩa về cơ quan là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng, cả lãnh đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ nhiệm Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận xét: “Cái quần nó loe thì đầu óc nó cũng loe.

“Tuy, ít nơi chính thức ban hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu như các mệnh lệnh thường có giới hạn thì các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất là khi các đoàn viên “hồng vệ binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc càn quấy” ấy.

Nhiều nơi, những người mặc quần loe, để tóc dài đã bị các đoàn viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng dao, kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường (Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam). Ông Phan Minh Tánh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội ông thấy, ở cơ quan Trung ương Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần loe để tóc dài”.

Sưu tầm trên internet, chúng tôi gặp bức ảnh một người thanh niên tên Nguyễn Minh Tâm bị đeo tấm bảng trước ngực có dòng chữ “Mê Nhảy Đầm” giữa thành phố Sài Gòn vừa đối chủ. Ngày ghi trên bảng không rõ nhưng phía sau lưng anh là 4 chú bộ đội, không biết là vô tình xuất hiện hay chính họ là người đạo diễn cảnh bêu riếu này.


Câu chuyện bên lề dưới đây được Bên Thắng Cuộc viết lại qua lời kể của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc dạy tại trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Trong năm học 1976-1977 một học sinh lớp 10, lớp do cô phụ trách, đã viết 4 câu thơ lên bàn học của mình:

Không muốn ngồi yên để đợi trông
Thích làm Từ Hải giữa muôn lòng.
Cộng lại những gì trong quá khứ,
Sản khoái trong lòng thoả ước mong

Theo cô giáo, điều quan trọng không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả trong câu cuối cùng, thay vì “sảng khoái” em viết “sản khoái”. Đó là một lỗi “cố ý” vì đoạn thơ có 4 chữ bắt đầu bằng “Không”, “Thích”, “Cộng” và “Sản”, ghép lại thành cụm từ “Không Thích Cộng Sản”.

Bên Thắng Cuộc bình luận: “Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy năm tích tụ, nhưng hành động viết ra thì chỉ là một phút bốc đồng. Có người đã báo cáo và học sinh đó đã bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học”.

Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể thêm: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đã cố hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đã nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”.

Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ viết trên bàn học, sự trải nghiệm “Sài Gòn giải phóng” đã giúp nhà thơ Đỗ Trung Quân [1] thai nghén những vần thơ cũng đau như dao cắt, nhưng nó không được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải nhận cây còng số 8.

Năm 1982, Đỗ Trung Quân (tác giả Quê hương là chùm khế ngọt…” viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn nhưng mãi tới năm 2009 tác giả mới công bố bài thơ này trên blog cá nhân. Bên Thắng Cuộc đã trích lại bài thơ để minh chứng một góc nhìn của người dân Sài Gòn với những người đã “giải phóng” mình:

Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”

Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc

Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản

Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang”, nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

Trong những năm đầu “giải phóng”, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài Gòn vẫn thích đeo bên hông khẩu K54. Những năm về sau, họ đã biết uống bia, biết áo phông (pullover), quần bò (quần Jeans). Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn nén sau bảy năm “giải phóng”, còn lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn miền Bắc, đến trước mặt anh, chỉ đôi dép sa-bô, cái quần bò đang mặc và hỏi: “Ê Quân, thấy bọn này Sài Gòn chưa?”.

Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở là chữ của Đỗ Trung Quân mà Huy Đức đặt tên một trong tiểu đề trong Bên Thắng Cuộc. Khi ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:

Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người
giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ
cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…

Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội
sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!

Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch

Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
Rượu bia và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?

Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi

Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thuở
để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi) Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở

Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?


Đỗ Trung Quân, “thanh niên chậm tiến”, và một bài thơ mới

Xin trích lại nguyên văn đoạn dưới đây trong Bên Thắng Cuộc, chuyện bên lề về ông Lê Duẩn. Phần bình luận dành cho người đọc, dĩ nhiên tùy thuộc vào chính kiến và quan điểm của mỗi người:

“Tháng Giêng năm 1976, theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân và ông Trần Phương, theo đường bộ, đi xe vào thẳng Sài Gòn. Ông Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm việc được, người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài Gòn đã là cuối tháng Chạp, ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về thì về trước”. Ông Đậu Ngọc Xuân đã ở lại.

Sáng mùng Một Tết Bính Thìn, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân thì trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì. Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”.

Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.

Về quê

Bạn có biết “deux cents bougies” là gì? và ai được gắn “danh hiệu” đó? Hãy đọc đoạn văn dưới đây trong Bên Thắng Cuộc:

“Theo ông Võ Văn Kiệt, ngay cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quý mến ông Duẩn và gọi ông là “ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm việc của ông như một “ngọn đèn 200 nến”. (?)

Chân dung ông Lê Duẩn trong những ngày lãnh đạo kháng chiến ở miền Nam được bà Nguyễn Thụy Nga [2] còn có tên Nguyễn Thị Vân, bí danh Bảy Vân, người vợ thứ hai của ông, mô tả như sau:

“Anh mặc quần rách đít, áo rách cùi chõ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy ký nhưng vì cao nên trông anh khô quắt, khô queo, áo quần thì nhuốn màu phèn Đồng Tháp Mười. Sinh hoạt của anh làm tôi xúc động.

Những người như ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ, người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy ở nhà lá nhưng cũng rất đàng hoàng. Còn anh, chỉ có một chiếc thuyền tam bản, đến cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo vệ leo lên nhà ngủ, còn anh ngủ dưới ghe. Anh nhường nhịn điều kiện tốt cho mọi người”

Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân)

Loạt bài viết về Bên Thắng Cuộc xin “tạm ngưng” ở đây với những chuyện vui buồn bên lề góp nhặt từ Cuốn I “Giải Phóng”. Sở dĩ tôi viết “tạm ngưng” vì chắc chắn còn có nhiều điều để bàn khi Cuốn 2 “Quyền Bính” ra mắt bạn đọc.

Chúng ta lại còn tiếp tục nói đến “Hậu-Bên-Thắng-Cuộc” vào năm 2013 khi Huy Đức hoàn tất học bổng Nieman Fellowship tại Havard (Boston). Liệu Huy Đức có trở về Việt Nam?

***

Chú thích:

[1] Đỗ Trung Quân sinh năm1955 tại Sài Gòn, là một nhà thơ với một số bài được phổ nhạc và được nhiều người yêu thích như Quê hương, Phượng hồng tại Việt Nam... Anh còn được biết đến với nhiều nghề "tay trái" khác như MC cho những chương trình ca nhạc của bạn bè hay làm diễn viên cho một số phim truyền hình.

Theo bài phỏng vấn trên báo Vietnam News giữa năm 2005 thì trong khai sinh của anh không có tên cha. Đỗ Trung Quân được mẹ là bà Đỗ Thị Hảo nuôi lớn đến năm 15 tuổi thì mẹ mất. Anh tiếp tục mưu sinh và sau khi tốt nghiệp Tú tài, vào học tại Đại học Vạn Hạnh.

Năm 1979, Đỗ Trung Quân tham gia phong trào Thanh niên Xung phong và bắt đầu sáng tác. Một số bài thơ phổ nhạc được nhiều người biết đến như:

  • Hương tràm (1978), Vũ Hoàng phổ nhạc
  • Bài học đầu cho con (1986), Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài Quê hương
  • Chút tình đầu (1984), Vũ Hoàng phổ nhạc thành bài Phượng hồng (1988)
  • Khúc mưa, Phú Quang phổ nhạc
Trang blog “Chung Do Kwan”, nhại theo tên Hàn Quốc của Trung Đỗ Quân, khá nổi tiếng trong giới blogger tại Việt Nam (http://dotrungquan.com/). Anh giải thích về cái tên “củ sâm” của mình:

“Cái tên ấy thật sự chỉ là cách đọc trại tên thật của tôi: Đỗ Trung Quân mà thôi. Nó mang ý nghĩa  vừa hài hước vừa tự châm biếm mình trong giai đoạn mà ảnh hưởng văn hóa của xứ “Củ sâm” hầu như chiếm lĩnh xã hội ta từ giải trí,  tiêu dùng đến cả hôn nhân gia đình. Sự chiếm lĩnh có lẽ chỉ đứng sau ảnh hưởng của phim ảnh văn hóa Trung Quốc. Tất nhiên, chủ nhân blog cũng không phủ nhận những ảnh hưởng cần thiết, tốt đẹp giao thoa của mọi nền văn hóa có tính toàn cầu”.

Đỗ Trung Quân trong thời gian gần đây thường xuất hiện tại các cuộc biểu tình của người Sài Gòn chống Trung Quốc xâm lược.

Tranh của Đỗ Trung Quân

[2] Nguyễn Thụy Nga: Huy Đức viết về cuộc tình của bà Nga và ông Lê Duẩn, vốn được các đồng chí của ông gán cho danh hiệu “ông 200 bougies” nhưng cũng có thể là “ông 400 bougies” khi có một người như bà Nga “kề cận chăm sóc”:

“Bà Nguyễn Thị Nga sinh năm 1925, con của một tri huyện cáo quan về viết báo và mở lò gạch tại Biên Hòa. Theo bà Nga thì cha bà đã từng là chủ bút tờ báo tiếng Pháp ‘La Tribune Indigène’. Năm mười hai tuổi, cô tiểu thư Nguyễn Thụy Nga đã từng phải khai tăng tuổi để thi. Năm mười bốn tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động và cũng từ đây, cô “trót yêu một đồng chí đã có gia đình”.

Người tình “đồng chí” của bà Nga chính là “hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người cộng sản lãnh đạo “cướp chính quyền” ở Sài Gòn năm 1945. Đây là cuộc tình mà “cả hai người vừa duy trì, vừa kìm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối quan hệ của hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga bị buộc phải chuyển về Sài Gòn công tác.

Đúng lúc ấy, ông Lê Duẩn từ Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp Tỉnh ủy, ông cũng được nghe câu chuyện tình của bà Nga, bấy giờ đang là nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà Nguyễn Thị Nga được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức cho Bí thư Xứ ủy.

Khi được ông Lê Duẩn hỏi thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên Sài Gòn, đối với tôi là một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn gì. Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu thì khó làm được. Xa nhau cũng được nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc.

Theo bà Nga thì khi ấy ông Duẩn không phát biểu gì nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ, ông nói: “Nếu có cưới vợ thì tôi thích người có tình, chung thủy như chị Nga”.

Ít lâu sau, Lê Đức Thọ xuống Cần Thơ công tác, gặp bà Nga: “Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi. Anh xa nhà hai mươi năm không có tin tức gì, gia đình anh còn ở vùng địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó cũng là một nhiệm vụ. Hiện nay trong lãnh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng suốt, anh em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm sóc thì anh ấy sẽ trở thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có lợi cho cách mạng”

Bà Nguyễn Thụy Nga cùng con gái Vũ Anh, con trai Lê Kiên Thành, Lê Kiên Trung
chụp trước khi chia tay các con vào Nam năm 1964.
(Ảnh tư liệu gia đình)

Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ lại: “Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, vì trong lòng tôi lúc nào anh cũng là một lãnh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê Duẩn nói thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ mãi. Một lần tôi lấy hết can đảm hỏi anh: ‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đình, phải giải quyết sao đây?’.

Anh nói: ‘Anh cưới vợ trước kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà Nội ở một thời gian nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói với chị ấy nên tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp được gì cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì người phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình đi hoạt động cách mạng, có điều kiện gần gũi nhau, chắc không có gì khó khăn”

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

--> Read more..

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Đọc “Bên Thắng Cuộc” (3) – cuộc chiến với người anh em

(Tiếp theo)

"Phải đưa chiến tranh đến hòa bình 
chứ đừng đưa hòa bình đến chiến tranh"
(We must lead war to peace, not peace to war)
Platon

Platon, triết gia người Hy Lạp mà nhân loại tôn vinh là vĩ đại nhất của mọi thời đại, đã có một lời khuyên rất thâm thúy về chiến tranh như đã dẫn ở trên. Ông đã từng bị bán làm nô lệ, trở về Athena khoảng năm 387 trước Công Nguyên và sáng lập ra trường đại học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu, giảng dậy khoa học – triết học.    

Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lý tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển cần phải giải quyết được các mâu thuẫn xã hội cũng như chính trị, trong đó vấn đề chiến tranh – hòa bình là một trong những yếu tố quan trọng. Cần phải đưa chiến tranh đến hòa bình chứ không bao giờ từ hòa bình trở thành chiến tranh.  

Lịch sử cận đại của Việt Nam cứ luẩn quẩn trong chiến tranh và hòa bình. Vừa thoát khỏi cuộc chiến lớn, hưởng được hòa bình vài năm lại tiếp tục hướng đến chiến tranh. Khởi đầu là cuộc đối đầu giữa Việt Nam và Khmer Đỏ tại vùng biên giới Tây Nam năm 1977. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tiếp theo tại biên giới phía Bắc với Trung Cộng.

Cả Khmer Đỏ lẫn Trung Cộng đều là “anh em” với Việt Nam như vậy làm sao lại xảy ra xung đột, gây tổn thất về nhân mạng cũng như làm sứt mẻ “tình đồng chí” giữa cả 3 bên? Phải chăng Việt Nam là kẻ hiếu chiến hay chỉ là nạn nhân của hai nước “anh em”?


Ngày 17/4/1975, Phnom Penh rơi vào tay Khmer Đỏ, Pol Pot [*] đem quân vào “giải phóng” thủ đô Campuchia. Quân giải phóng có cả những chú lính miệng còn hôi sữa nhưng khuôn mặt đằmg đằng sát khí với súng và lựu đạn trong tay. Bên Thắng Cuộc mô tả ngày Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh, lúc đó khoảng 7g30 sáng ngày 17/4:

“Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu hàng. Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu là thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đã tới ngày hòa bình. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự.

Khoảng 1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của Chính quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc” bắt đầu bị ném ra đường và đốt.

 Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong tòa Đại sứ Pháp còn Long Boret thì gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết”.

Ngay ngày hôm sau, tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic trong khi các quan chức dân sự bị xử tử hình tại Hội quán Thể thao. Viên chức chính quyền ở các địa phương cũng cùng số phận. Tuy nhiên, phải đến khi Pol Pot ra lệnh trục xuất dân chúng ra khỏi các đô thị trên cả nước thì người dân mới hiểu họ cũng là nạn nhân của chế độ mới.

Tính cả số các quan chức, quân nhân bị hành quyết, người dân bị bắn do không chịu chấp hành, hơn hai mươi nghìn người đã bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24/4/1975, sau khi ra lệnh đưa toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn.

Quân “giải phóng” Khmer Đỏ gồm cả thiếu niên

Theo Bên Thắng Cuộc, Pol Pot ban hành chính sách tám điểm: (1) di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các thành phố; (2) thủ tiêu tất cả chợ búa; (3) ngưng lưu hành tiền tệ; (4) buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; (5) hành hình các nhà lãnh đạo Lonnol; (6) thành lập các hợp tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn tập thể; (7) trục xuất toàn bộ người Việt Nam; (8) triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là biên giới Việt Nam.

Cuốn sách tiết lộ: “Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ ba mươi năm”.

Tháng 9/1975, Pol Pot phái Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith tới Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với ông Sihanouk: “Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa xã hội”.

Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã từ hồi tháng 4/1975, ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.

Huy Đức viết: “Kết cục là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk đã trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đã bị Angkar đưa đến các công xã để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ có hư danh”.

Khmer Đỏ vào Phnom Penh

Ba năm tại Campuchia với nhiệm vụ của một “chuyên gia” Quân đội Nhân dân Việt Nam, Huy Đức có thể được coi như “người biết khá nhiều về Khmer Đỏ”. Tuy nhiên, tôi có thể khẳng định những suy nghĩ của một sĩ quan vào thời điểm đó khác hẳn với nhà báo Huy Đức của ngày nay.

Những gì mà Trương Huy San (tên thật của Huy Đức) được chứng kiến tại Campuchia chỉ là những điều “mắt thấy tai nghe” nhưng những thông tin mà nhà báo Huy Đức tiết lộ trong Bên Thắng Cuộc là kết quả của 20 năm lăn lộn trong nghề báo.

Việt Nam có nhiều nhà báo nhưng không phải ai cũng có lợi thế như Huy Đức. Ngoài khả năng thu thập tài liệu phải kể đến sự “thân cận” của anh trong bộ máy chính quyền, kể cả những nhân vật “chóp bu” của Việt Nam như Lê Duẩn (và người vợ miền Nam của ông, Nguyễn Thụy Nga), Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt…

Đó cũng là lý do tại hải ngoại một số người vẫn coi Huy Đức là “anh Việt cộng tập sự làm văn” (theo bài viết của Bùi Xuân Cảnh), “một người được đào tạo trong lò cộng sản 100%” (Phan Đông Anh  trong bài Bên Thắng Cuộc, người quốc gia “thua cuộc” tiếp), “một nhân vật Việt cộng có nhiều ‘Dây mơ rễ má’ với nhiều nhân vật số một của Bộ Chánh Trị và Ban Lãnh Đạo Trung Ương của đảng Cộng sản Việt Nam” (bài viết của Thanh Thủy), “ông nhà báo VC Huy Đức” (bài viết của Lão Móc trên http://tieng-dan-weekly.blogspot.com/)...

Thậm chí trong bài viết của Ngô Kỷ mang đề tựa Báo Người Việt chính thức làm "chó săn" cho cộng sản tại Việt Nam, đã đặt một câu hỏi thẳng thừng: “Thử hỏi tác giả Huy Đức lấy tư cách gì mà được tiếp xúc với Tổng bí thư đảng cộng sản Lê Khả Phiêu nếu Huy Đức không phải là thằng ký giả đóng vai trò "bưng bô" cho cộng sản?”.

Về phần mình, Huy Đức cho biết: ‘Tôi mong các nhà lãnh đạo hiện nay đọc Bên Thắng Cuộc cho dù họ đánh giá cuốn sách như thế nào. Nhận ra những sai lầm để “đưa dân tộc Việt Nam đi đúng con đường dân chủ, phát triển” là mong ước của chúng ta. Nhưng tương lai dân tộc không thể chỉ được trông cậy vào một cuốn sách hay vào chỉ trông cậy vào các nhà lãnh đạo ở “bên thắng cuộc”.

Theo tôi, lẽ ra Huy Đức không nên nói “…  tương lai dân tộc không thể chỉ được trông cậy vào một cuốn sách…”. Nói như vậy là thiếu khiêm tốn và quá tâng bốc cho cuốn sách của mình vì, dù sao đi nữa, Bên Thắng Cuộc cũng chỉ là một trong những cuốn sách đáng tham khảo trong khi tương lai dân tộc là một phạm trù rất lớn. 

Năm 1985, chuyên gia quân sự Osin 23 tuổi, tại đám cưới của một sỹ quan Campuchia 
(Photo & caption by Facebook Osin HuyDuc)

Trở lại Campuchia vào năm 1975, Pot Pot bắt đầu tỏ rõ chính sách thù địch với Việt Nam, đó là kết quả của sự dồn nén lịch sử trong nhiều thế kỷ đồng thời cũng là hậu quả của mối quan hệ đồng chí ngắn ngủi khi còn trong đảng Cộng sản Đông dương bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia.

Bên Thắng Cuộc tiết lộ: “Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối”.

Từ năm 1970 khi cuộc chiến tranh Việt Nam còn đang tiếp diễn, nhiều đơn vị của miền Bắc đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định không phải là quân lực VNCH mà là lực lượng của Khmer Đỏ.

Hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia đã bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu vì coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng được miền Bắc huấn luyện. Bên Thắng Cuộc đưa ra những chứng liệu:

“Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần còn lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy ra”.

Đó có thể coi như “bước dạo đầu” của những xung đột giữa hai người anh em cùng chí hướng “cộng sản” nhưng không “cộng hưởng”. Bên Thắng Cuộc cho rằng một trong những sai lầm của Việt Nam là quá “say sưa” với chiến thắng ngày 30/4/1975 nên những chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá đúng mức và các nhà lãnh đạo trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ là ai.  
  
Trái lại, Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về Phnom Penh. Nhà báo Nayan Chanda (Far Eastern Economic Review) cho biết: “Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc gia đình”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ.

Khieu Samphan đã làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải thích với Sihanouk: "Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ”.

Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000 km, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên phòng. Trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé. Và cái gì phải đến, đã đến:

“Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân tình lo lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn.

Chiến tranh bắt đầu leo thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V. Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại chuyển sang làm kinh tế – Sư 4 ở tứ giác Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh”.

Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra trên đường biên.

Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, vòng về tiêu diệt phần lớn lực lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xã Vĩnh Điện.

Trong một chuyến thăm Cần Giờ cuối năm 1977, Lê Duẩn trả lời một số thắc mắc của huyện ủy Cần Giờ tại sao “ta” lại đối phó với việc quấy rối, tàn sát, cướp phá dã man của Khmer Đỏ một cách rất… “lôi thôi”, Bên Thắng Cuộc đưa ra câu trả lời của Lê Duẩn:

“Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot, mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”.

Độ chính xác của câu trích dẫn này vẫn còn bỏ ngỏ. Người cung cấp thông tin là một ông Nguyễn Thành Thơ nào đó, có lẽ thuộc huyện ủy Cần Giờ. Khó tưởng tượng một viên chức nhỏ như ông Thơ lại dám chất vấn ông Tổng bí thư Lê Duẩn về một vấn đề “nhạy cảm” như vậy.

Người ta không phủ nhận ý nhĩa của câu trả lời là quan trọng nhưng cách diễn ý của Bên Thắng Cuộc là không có tính thuyết phục. Cũng vì thế một số người cho là Huy Đức có ý bao che cho những nhân vật nhân vật lãnh đạo bằng cách đưa vào sách những đoạn viết như trên.

Thêm một dẫn chứng trong việc “tô hồng” lãnh đạo trong Bên Thắng Cuộc qua lời kể của ông Đậu Ngọc Xuân: Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được’.

Ông Đậu Ngọc Xuân là nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Hợp tác và Đầu tư Nhà nước; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; ông cũng có thời gian làm trợ lý cho Tổng Bí thư Lê Duẩn. Cũng là điều bình thường khi một trợ lý nói những điều tốt đẹp về cấp trên của mình nhưng Bên Thắng Cuộc trích dẫn những lời trên đã làm mất đi tính khách quan của một tài liệu lịch sử. 

Osin Huy Đức
(Ảnh trên Facebook Osin HuyDức)

Trong các năm 1977, 1978, Trung Cộng viện trợ rất nhiều cho Khmer Đỏ về pháo binh, pháo phòng không, thuyền tuần tiễu… Hơn thế nữa, 500 chuyên gia quân sự đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng vũ khí. Theo Bên Thắng Cuộc, “Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn gặp cả người của lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên”.

Ngày 2/6/1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh, nhưng người đồng nhiệm với ông là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm Anh đã không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt chuyến đi này. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng đối với Công hàm 1958”. Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh.

Tháng 10/1977, chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot. Giữa tháng 10/1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba “trở ngại” mới: (1) sự thù địch của Việt Nam với Campuchia, (2) mối quan hệ với Liên Xô, và (3) tình trạng ngày càng nhiều “thuyền nhân” bỏ nước ra đi.

Bên Thắng Cuộc còn đưa ra một chứng liệu thuộc loại “quý” đối với những người quan tâm đến giai đoạn lịch sử cũng như kinh tế-tài chính của Việt Nam sau 1975:

“Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung cho hai miền… Không có biến động đáng kể vì lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư sản”. Lý do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”.

Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc”.

Tiền do Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam phát hành

Tại Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol Pot. Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk bí mật tìm gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.

Ngày 15/12/1978, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao kể từ ngày 1/1/79. Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9/1/1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ-Việt về bình thường hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”.

Trong cuộc chiến biên giới Tây Nam, tổn thất về phía Việt Nam, tính từ tháng 12/1977 đến tháng 6/1978, có 6.902 bộ đội bị hy sinh và 23.742 bị thương. Ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết.

Xe tăng Việt Nam trên xứ Chùa Tháp

Bên Thắng Cuộc dẫn người đọc vào cuộc chiến “huynh đệ” thứ hai giữa những người Cộng sản: “Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn đã dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 nghìn quân và sử dụng 200 nghìn quân trong ngày đầu xâm lược. Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn”.

Chiến tranh biên giới Việt-Trung, một cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt Nam một bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới là người đã dạy cho Trung Quốc bài học”.

Một tù binh Trung Quốc bị trói giật cánh khuỷu
(Photo & Caption: Wikipedia)

Ngày 2/3/1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của mình bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt Nam”.

Cùng ngày này, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát đi một tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt Nam… Những tên xâm lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, thì sẽ càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu”.

Theo Bên Thắng Cuộc, “Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên”. Lời kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại”.

Trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà báo Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: (1) Quân đoàn II lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; (2) Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn.

Ngày 5/3/1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”.

Tuy nhiên, chỉ một ngày sau khi lệnh Tổng động viên được ban hành, ngày 6/3/1979, Trung Cộng tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân. Sách của Huy Đức đưa ra những con số thống kê về cuộc chiến biên giới phía Bắc chỉ trong vòng một tháng:

“Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung Quốc là 22,3 tỷ.”

Lính Trung Quốc và một nữ dân quân Việt Nam đang canh gác tù binh
(Photo & Caption: Wikipedia)

Người đọc không thấy nói đến tổn thất về phía Việt Nam trong Bên Thắng Cuộc. Để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi trích nguồn Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_bi%C3%AAn_gi%E1%BB%9Bi_Vi%E1%BB%87t-Trung,_1979

  • Theo tướng Ngũ Tu Quyền (伍修), phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000.

  • Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.

  • Russell D. Howard cho rằng quân Trung Quốc thương vong 60.000 người, trong đó số chết là 26.000, một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc.

  • Nguồn của King Chen nói rằng riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.

  • Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000).

  • Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000 quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.

(Còn tiếp)

***

Chú thích:

[*] Pol Pot: Theo Wikipedia, Saloth Sar (19/5/1928 – 15/4/1998), người Campuchia gốc Hoa, được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lãnh đạo đảng Cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia (tên chính thức Kampuchea Dân chủ dưới quyền ông) từ 1976 đến 1979.

Trong thời gian cầm quyền Pol Pot đã tạo ra một chế độ cải cách nông nghiệp, nhằm tạo ra một xã hội cộng sản lý tưởng. Ngày nay, chế độ của ông bị hầu hết mọi người cho là nguyên nhân dẫn đến cái chết của khoảng 1,7 triệu người Campuchia (khoảng 26% dân số tại thời điểm đó).

Năm 1949, ông được theo học kỹ sư radio ở Paris. Trong thời gian học, ông đã trở thành một người cộng sản và gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1953, ông trở về Campuchia.

Lúc ấy, cuộc kháng chiến do cộng sản lãnh đạo đang diễn ra chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Trung tâm cuộc kháng chiến ở tại Việt Nam, nhưng cũng có các chi nhánh ở Campuchia và Lào. Saloth Sar gia nhập Việt Minh, nhưng thấy rằng tổ chức này chỉ chú trọng tới Việt Nam chứ không phải Lào hay Campuchia.

Năm 1954, Pháp rời Đông Dương, nhưng Việt Minh cũng rút về Bắc Việt Nam, và Vua Norodom Sihanouk kêu gọi tổ chức bầu cử. Sihanouk thoái vị và lập ra một đảng chính trị. Sihanouk hất cẳng những người cộng sản đối lập và chiếm toàn bộ số ghế chính phủ. Saloth Sar chạy trốn cảnh sát mật của Sihanouk và đã sống trong cảnh trốn tránh bảy năm trời, chiêu mộ binh lính.

Tới cuối thập kỷ 1960, Lon Nol là giám đốc tổ chức an ninh nội bộ của Sihanouk tiến hành các hành động chống lại những người cách mạng, lúc ấy được gọi là Đảng Cộng sản Campuchia. Saloth Sar bắt đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, được Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa giúp đỡ.

Trước năm 1970, Đảng Cộng sản Campuchia là một tổ chức rất ít được biết đến trong đời sống chính trị Campuchia. Tuy nhiên, năm 1970, vị tướng được phương tây ủng hộ là Lon Nol lật đổ Sihanouk, bởi vì Sihanouk bị coi là người ủng hộ Việt Cộng và Bắc Việt Nam.

Để phản kháng, Sihanouk quay sang ủng hộ phe của Saloth Sar. Cùng năm đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh tấn công quân sự vào Campuchia để tiêu diệt những nơi trú ẩn của Việt Cộng gần biên giới Nam Việt Nam. Cùng với sự yêu mến của dân chúng dành cho Sihanouk và cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia, phe Saloth Sar được nhiều người ủng hộ và chỉ trong thời gian ngắn chính phủ Lon Nol chỉ còn kiểm soát được các thành phố.

Khi Hoa Kỳ rời Việt Nam năm 1973, quân Bắc Việt rời Campuchia nhưng Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu với sự ủng hộ của họ. Không còn giữ được quyền kiểm soát đất nước nữa, chính phủ Lon Nol nhanh chóng sụp đổ. Ngày 17/4/1975, Đảng cộng sản Campuchea chiếm Phnom Penh và Lon Nol bỏ chạy sang Mỹ.

Chỉ chưa tới một tháng sau, ngày 12/5/1975, các lực lượng hải quân Khmer Đỏ hoạt động trên vùng lãnh hải Campuchia đã bắt giữ chiếc tàu buôn S.S. Mayaguez của Mỹ, chiếc tàu Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, gây ra Cuộc khủng hoảng Mayaguez. Saloth Sar đổi tên thành Pol Pot vào khoảng thời gian này, rõ ràng là không muốn lộ diện.

Chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu. Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.

Ngay sau khi Phnom Penh sụp đổ, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những cuộc cải cách cộng sản triệt để, và Sihanouk bị đặt vào vị trí lãnh đạo bù nhìn. Khmer Đỏ ra lệnh sơ tán toàn bộ khỏi Phnom Penh và tất cả các thành phố, thị xã chính của đất nước. Những người sơ tán được tuyên truyền rằng họ phải ra đi để tránh những cuộc ném bom của người Mỹ.

Năm 1976 mọi người được tái xếp hạng thành những người có đủ mọi quyền lợi (căn bản), ứng cử viên, và người mới đến - gọi thế vì đa số người thuộc loại này là người mới đến từ các thành phố. Những người mới đến được đánh dấu để tiêu diệt. Các khẩu phần của họ bị giảm xuống còn hai bát cháo, hay “juk” một ngày. Điều này khiến cho nạn đói xảy ra bên trong tầng lớp mới đến.

Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, “sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì.”

Hàng trăm ngàn người mới đến đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, “Không được làm phí đạn dược.”

Hàng nghìn chính trị gia và quan chức bị buộc tội hợp tác với chính phủ cũ bị giết hại trong khi Phnom Penh biến thành một thành phố ma với rất nhiều người chết đói, bệnh tật hay bị hành quyết. Mìn là thứ Pol Pot coi là “người lính tuyệt vời” và được rải khắp mọi vùng nông thôn.

Danh sách thương vong thời Pol Pot hiện vẫn còn gây tranh cãi. Các nguồn đáng tin cậy cho rằng số người chết dưới thời Khmer Đỏ là 1,6 triệu. Một con số cụ thể, là ba triệu người chết trong giai đoạn 1975 và 1979 được chế độ Phnom Penh là PRK đưa ra.

Tới năm 1978, thảm hoạ nhân đạo ở Campuchia dưới chế độ Pol Pot đã hiển hiện. Những cố gắng của chế độ nhằm thanh trừng những yếu tố Việt Nam ra khỏi Campuchia ngày càng tăng dẫn tới các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. Cuối năm 1978, để trả đũa những mối đe doạ ở biên giới và tới người dân Việt Nam, Việt Nam tấn công Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ.

Quân đội Campuchia dễ dàng bị đánh bại và Pol Pot chạy tới vùng biên giới Thái Lan. Tháng 1/1979, Việt Nam hỗ trợ lập ra một chính phủ mới với người đứng đầu là Heng Samrin, gồm những người Khmer Đỏ đã chạy sang Việt Nam để tránh các cuộc thanh trừng. Pol Pot vẫn giữ được một vùng nhỏ ở phía tây đất nước. Lúc ấy, Trung Quốc, trước kia từng ủng hộ Pol Pot, tấn công Việt Nam, gây ra một cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung.

Pol Pot tán thành một thứ tập hợp các triết lý cấp tiến, được gọi là Học thuyết Anka, được sửa đổi theo chủ nghĩa quốc gia Khmer. Muốn xây dựng một chủ nghĩa ruộng đất nguyên thuỷ, Khmer Đỏ tán thành một xã hội ruộng đất theo đó tất cả các phát minh kỹ thuật hiện đại đều bị cấm ngặt. Pol Pot là kẻ đối lập lại với thuyết chính thống Xô viết. Bởi vì ông là người chống Xô Viết nên Cộng hoà nhân dân Trung Hoa coi ông là thích hợp để chống Việt Nam (và vì thế cũng là chống Liên Xô).

Ngược với bề ngoài giản dị với bộ áo quần bà ba đen, Pol Pot rất sành điệu khi chọn xe hơi với các chiếc xe Limousine Mercedes Benz Stretch đời 1973 cực kỳ sang trọng và quý phái. Pol Pot và các đồng sự được xem là đối tượng của Tòa án quốc tế về tội ác diệt chủng. Việc lập tòa án xét xử gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, một số thế lực từng ủng hộ Khmer Đỏ lấy làm tiếc về việc làm quá đáng của Pol Pot với người dân Khmer nhưng họ đều đã lớn tuổi và cái chết già sẽ là một sự dễ chịu cho các bên cũng như lịch sử.

Pol Pot

*** 
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

--> Read more..

Popular posts