Thứ Ba, 26 tháng 3, 2019

Tản mạn về một người thầy


Tôi vẫn thường nói đùa, Giáo sư Bùi Dương Chi là một trong những người Việt tỵ nạn đến Hoa Kỳ sớm nhất. Chính xác là vào năm 1974, một năm trước ngày “định mệnh” khi Miền Nam… “đổi chủ”.

Sớm là vì ông rời Việt Nam để nhận học bổng của Đại học Boston, Massachusetts, môn Cao học Giáo dục khi Sài Gòn vẫn còn chìm đắm trong lửa đạn chiến tranh. Đến khi tốt nghiệp, ông không thể về nước và đã trở thành người tỵ nạn “bất đắc dĩ” để bắt đầu cuộc sống mới nơi đất khách.

GS Bùi Dương Chi tại Sài Gòn, 2015

Âu đó cũng là một “duyên may” khi tôi được học Anh văn với GS Chi năm lớp Đệ Tam và Đệ Nhị tại trường Trung học Ban Mê Thuột. Phải nói, cuối thập niên 60 Anh văn là một môn học đã thu hút sự chú ý của học sinh khi cuộc chiến tại Miền Nam bắt đầu “leo thang” với sự hiện diện của Hoa Kỳ và các nước đồng minh khác.

Thầy và trò chỉ hơn nhau 7 tuổi nhưng quả thật GS Chi đã “thổi” vào đầu óc học trò tỉnh nhỏ chúng tôi “một luồng gió mới” về môn Anh văn, nhưng quan trọng hơn cả là những suy nghĩ về cuộc sống. Đó là điều đọng lại sâu đậm nhất dù chỉ hai năm ngắn ngủi nhưng tràn đầy kỷ niệm của tuổi học trò. 

Anh văn hồi tôi còn đi học chỉ là môn sinh ngữ phụ, sau tiếng Pháp. Ấy thế mà chỉ trong 2 năm mọi chuyện đã thay đổi, nó trở thành sinh ngữ chính lúc nào không biết. Thầy Chi có một phương pháp dạy học rất mới, ông kết hợp sách giáo khoa với âm nhạc, văn chương và cả với các hoạt động ngoài lớp học.

Ông dạy chúng tôi những bài thuộc loại dân ca Hoa Kỳ như “Five hundred miles” (1), những truyện ngắn nổi tiếng như của O’Henry, “The gift of the magi”, và thiết thực hơn nữa, ông tổ chức xây thư viện trong sân trường. Học sinh tự làm gạch rồi tự xây một thư viện “bỏ túi” để vào ngồi đọc sách!  

Thầy Chi và Thư viện trường Trung học Ban Mê Thuột

Rồi thời gian qua đi, thầy trò gặp lại nhau khi GS Chi về Sài Gòn để làm thủ tục du học năm 1974. Khi đó tôi đã là giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội và hai thầy trò lên An ninh Quân đội (Số 4 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm) để tôi đứng ra bảo lãnh cho thầy đi Mỹ du học theo luật định hồi đó!

Cả hai thầy trò đều không ngờ đó là lần cuối của thầy tại Việt Nam, rõ hơn là dưới chính thể VNCH. Cuộc đời của một giáo sư Anh văn đã bước sang một trang mới, tôi gọi đó là “đời tỵ nạn”, khác hẳn với đời của một giáo chức ngày xưa.

Qua những hồi ức mang tên “Tôi du học”, chúng ta hiểu được phần nào cuộc sống của người tỵ nạn những ngày đầu sau biến cố 30/04/1975. Thầy Chi viết:

“Tốt nghiệp NK [niên khóa] 1975-1976 tôi theo lời khuyên của thân nhân xuống tiểu bang Virginia kiếm việc vì nơi đây đang tuyển dụng giáo viên dậy tiếng Anh cho học sinh nhập cư. Nộp đơn và tờ khai quá trình dậy học mới mấy ngày là tôi đã nhận được thư nhanh mời đến Phòng Nhân Viên để Tiểu Ban Tuyển Dụng phỏng vấn”.

Thầy Chi đã được tuyển dụng làm giáo viên tiếng Anh, là “ngôn ngữ thứ hai” (ESL – English as a Second Language), kiên tư vấn cho Ủy ban vì sĩ số Trung-Tiểu học và Mẫu giáo tại Fairfax khi đó đã lên tới khoảng 188.000 học sinh với gần 1/3 có tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh.

Thầy được xếp vào bậc lương “Step 5”, bậc cao nhất dành cho những người ngoài tiểu bang đến dậy với kinh nghiệm trên 5 năm. Trước khi nhận việc, thầy Chi được thuyết trình rất kỹ về nền giáo dục Hoa Kỳ, chẳng hạn như nguyên tắc “Spare the rod, spoil the child” (Tha roi vọt là làm hư trẻ) hoàn toàn không được áp dụng tại Mỹ.

Giáo viên nào xúc phạm đến thân thể học sinh trong bất kỳ tình huống nào là vi phạm luật giáo dục và cả luật hình sự. Ông Giám đốc Nhân viên nhấn mạnh đó là nguyên tắc mà tất cả mọi giáo viên cũng như ban Giám hiệu phải tuân thủ triệt để tại Hoa Kỳ. Ông còn giải thích thêm, “In Rome do like the Romans” (Ở La Mã phải hành xử như người La Mã).

Điều khiến thầy Chi bối rối là vấn đề quốc tịch. Theo luật định, giáo viên phải có quốc tịch Mỹ nên nhà trường có lời khuyên ông nên đến Sở di trú nộp đơn nhập quốc tịch càng sớm càng tốt. Ông rất khó xử vì không có ý định bỏ quốc tịch Việt Nam. Thấy vậy, ông Giám đốc khuyên thầy nên suy nghĩ kỹ về vấn đề này sau niên học đầu tiên. 

"Tôi du học" - Bùi Dương Chi

Đang từ một nền giáo dục của VNCH với 3 nguyên tắc "Nhân bản - Dân tộc - Khai phóng" thầy Chi được tiếp xúc với một lý thuyết mới lạ của Hoa Kỳ, trong đó vai trò của thầy và trò được xác định qua phương châm: “Đừng đi đằng trước tôi, tôi không theo đuôi; đừng đi đằng sau tôi, tôi không dẫn lối; hãy đi bên cạnh tôi và làm bạn của tôi” (2). Ông viết:

“Ở Mỹ, trong một niên khóa, học sinh thường học từ 190 đến 200 ngày… Học sinh nhà nghèo được mượn sách và ăn trưa miễn phí. Vì quận Fairfax rất khá giả [về ngân sách] nên nhiều em còn được ăn điểm tâm dù cha mẹ không phải là công dân Mỹ.

“Tiết 2 thường gọi là “Homeroom”. Tất cả các học sinh cùng lớp phải về phòng của giáo viên hướng dẫn (chủ nhiệm) để điểm danh, chào cờ, nghe thông cáo, thảo luận sinh hoạt hiệu đoàn (ngoại khóa), v.v…

“Trừ tiết “Homeroom”, tiết thể dục và tiết ăn trưa, học sinh thường học 4 tiết mỗi ngày, tùy theo trình độ và các môn đã chọn được ghi trong thời khóa biểu cá nhân để đi đến phòng học…  

(hết trích)

Một đặc điểm của nền giáo dục trung học Hoa Kỳ là chương trình “G & T” (Gifted & Talented - Thiên phú & Tài năng). Những em dù điểm trung bình thấp vẫn có thể được chọn vào nhóm này miễn là có lý luận sắc bén, có ý kiến khác người hoặc thậm chí có óc tưởng tượng phong phú.

Theo GS Chi, nhờ những chương trình tìm kiếm và đào tạo nhân tài như vậy mà Hoa Kỳ luôn giữ ngôi vị hàng đầu trong các lãnh vực khoa học, nghệ thuật, kinh tế, quân sự…

“School bus” chở học sinh đến trường và về nhà

Cuối niên khóa 1981-1982 Khu học chính Fairfax lại gửi văn thư nhắc về việc nhập quốc tịch Mỹ. Thầy Chi suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Ông cho rằng giáo viên dạy trung và tiểu học ở Mỹ khác hẳn với công việc của một giáo sư dạy trung học tại Việt Nam mà ông đã trải qua.  

Khi còn dạy Đệ nhị cấp tại Ban Mê Thuột ông chỉ dạy có 12 tiếng mỗi tuần và được trả lương phụ trội nếu dậy thêm giờ. Ở Mỹ, ông làm việc 8 tiếng mỗi ngày, kể cả công việc chăm lo cho học sinh tại căng-tin!

Cuối cùng, thầy Chi tạm xếp bút nghiên để hành nghề lao động tự do! Ông chọn nghề thợ sơn và sửa chữa lặt vặt sau khi đã nghiên cứu sách vở và học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước.

Để quảng cáo, ông nhờ người quen thiết kế “tờ rơi” (flyer), in thành 1.000 bản rồi đem bỏ vào thùng thư hoặc gài vào khe cửa từng nhà khắp vùng Tây Bắc Washington thay vì quảng cáo trên các phương tiện truyền thông rất tốn kém.

Tờ rơi quảng cáo dịch vụ sơn sửa nhà cửa

Chờ đợi hơn một tháng mà chẳng thấy một người khách nào gọi điện thoại đến! Ông bắt đầu nao núng với số tiền đã bỏ ra mua dụng cụ, tiền trả góp xe pick-up để chuyên chở đồ đạc. Tức cảnh ông làm thơ than thở:

“Chờ hoài khách không gọi,
Quanh quẩn đếm ngày qua,
Khoan, kìm, cưa, búa… rỉ
Bạc đầu ai biết ta?”  

Đầu tư cho một nghề mới

Thế rồi khách hàng đầu tiên cũng xuất hiện. Ông kể lại lần “mở hàng” trong “Tôi du học”:

“Tổ sơn mộc chắc thấu tình nên ít lâu sau đó có một bà gọi điện thoại hỏi tôi nhận sơn sửa lặt vặt không? Mừng quá tôi thưa: “no job is too small” nhưng giả bộ bận việc, tôi gồng mình nói tuần tới mới có thể ghé qua xem việc được. Rất may bà chịu chờ. Tới ngày hẹn, tôi mặc một bộ quần áo bạc mầu, khuỷu tay và đầu gối vá thêm vải lót, lái xe tới đậu gần nhà bà, căn y chang giờ giấc rồi cầm sổ tay bước lên thềm nhấn chuông.

“Chờ một hồi vừa nghe tiếng chó con sủa thì một bà đứng tuổi mở cửa ra gặp. Bà xin lỗi vì mắc bận điện thoại đường dài. Tôi tươi tỉnh chào và xin xem nơi cần sơn sửa. Bà dẫn ra nhà để 2 xe (2-car garage) bảo tôi con bà sắp vào Đại học nên đã đến lúc gỡ bỏ khu bóng rổ, trám xi măng các lỗ xoắn, thay mấy khung kính bị rạn nứt phía trên cửa và sơn 3 mặt ngoài của garage ăn thông với nhà bếp.

“Chăm chú ghi chép xong, tôi ra giá. Bà bằng lòng. Tôi cám ơn và một lần nữa lại giả bộ bận bịu nên nói để tôi xem lại lịch làm việc rồi sẽ bắt đầu.

(hết trích)

Sau mấy ngày lao động cật lực, kể cả việc quét dọn sạch sẽ “hiện trường” và trừ đi tiền mua vật liệu… tiền công ông kiếm được trong “phi vụ” đầu tiên bằng cỡ ¼ lương tháng của một giáo viên!

Với chủ trương “lấy công làm lời” của một “tay ngang”, thầy Chi đã bắt đầu một cuộc sống lao động chân tay, khác hẳn với những ngày lao động trí óc trước đó. Vị khách hàng đầu tiên rất hài lòng với công việc thầy Chi đã làm và từ đó giới thiệu với bạn bè có nhu cầu sửa chữa.

Dần dà, qua những lời giới thiệu truyền miệng (words of mouth), những tháng sau đó thầy Chi đã có từ một đến hai khách hàng. Người xưa đã nói “năng nhặt chặt bị” quả là không sai!

Đây cũng là dịp tốt để ông tiếp xúc với giới tinh hoa của khu phố cổ Georgetown tại thủ đô Washington. Khu này rất nổi tiếng vì là nơi sinh sống của những nhân vật thành đạt trong giới hàn lâm, chính khách và doanh nhân.

Thầy Chi dần dần phát triển dịch vụ sơn sửa nhà cửa với một ông anh ruột, một người bạn cũ là cựu giáo sư ngày xưa cùng dậy học trên Ban Mê Thuột… rồi lại còn thêm 3 anh em ruột thuộc loại “thợ gì cũng làm” khi mới vượt biên sang Hoa Kỳ.

Có thể nhờ vào nhân cách của cả tốp thợ tay ngang nên khách hàng, những người cần sự an toàn và riêng tư, rất tin tưởng khi giao phó công việc sửa sang nhà cửa.

Thầy Chi còn giữ được thư cám ơn của một viên chức Quỹ Dự trữ Tiền tệ Liên bang. Âu đó cũng là một phần thưởng tinh thần dành cho những người Việt chân chính tại đất Mỹ, bất kể đó là lao động trí óc hay lao động chân tay.

Thư cám ơn của một khách hàng

Chuyện “Tôi du học” của GS Chi là như vậy. Tuy nhiên tôi lại nghĩ, nên đặt tên cho chuyện này là chuyện của những người di tản thời kỳ đầu tiên trên đất Mỹ để chúng ta có thể biết chi tiết hơn về cuộc sống của những người tha hương… “bất đắc dĩ”!

***

Chú thích:

(1) Bản nhạc “Five hundred miles” có kèm lời ca với hơn 6 triệu người vào nghe:

(2) “Don’t walk in front of me, I will not follow; don’t walk behind me, I will not lead; walk beside me and be my friend”.


***

Tham khảo thêm:

* “Tình nghĩa thầy trò”
chinhhoiuc.blogspot.com/2014/07/tinh-nghia-thay-tro.html

* “Qùa Giáng Sinh” (The Gift of the Magi)
chinhhoiuc.blogspot.com/2017/12/qua-giang-sinh.html

***

--> Read more..

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2019

Thôi rồi… Đà Lạt ơi!


Dù không phải là một người chuyên về… “Đà Lạt Học” nhưng tôi đã viết khá nhiều về vùng cao nguyên Lâm Viên (hay còn gọi là Langbiang), nơi có độ cao trung bình 1.500 mét so với mực nước biển.

Vào cuối thế kỷ 19, khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng dành cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer đã quyết định chọn cao nguyên Lâm Viên theo đề nghị của bác sĩ Alexandre Yersin, người từng thám hiểm nơi đây vào năm 1893.

Leo đỉnh Langbiang (1994)

Các bạn sẽ tham khảo những bài viết về Đà Lạt ở phần cuối, tôi chỉ xin kể ra đây những bài viết điển hình, chẳng hạn như “Đà Lạt sương mù: Quê hương thứ hai” là chuyện một chú bé rời Hà Nội vào Đà Lạt từ năm 1953 (trước cuộc di cư năm 1954) trên bước đường theo bố phục vụ trong lực lượng Ngự Lâm Quân của vua Bảo Đại.

Trong “Đà Lạt sương mù: Đất lành chim đậu” người đọc có dịp tìm hiểu cuộc sống của người Đà Lạt xưa theo những gì mắt thấy tai nghe và trong “Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du” kể lại sự trở về Đà Lạt năm cuối cùng thời Trung học sau một thời gian lưu lạc đến xứ Ban Mê.

Cũng có bài viết “Hồi ức về một người thân”  kể lại kỷ niệm những ngày học hành ở Đà Lạt dưới sự dạy kèm tại nhà của ông anh lớn tuổi. Tôi đã học “nhảy”, có nghĩa là từ lớp Ba sang lớp Năm mà không ngồi ở lớp Tư để thi Tiểu học.

Đà Lạt sương mù

Những bài viết trong quá khứ là tâm sự của một người Đà Lạt, hồi tưởng đến những kỷ niệm khó quên, từ thuở thiếu thời, một quãng đời kéo dài từ những ngày còn đi học cho đến khi vào lính. Giờ thì tóc đã điểm sương nhưng trong đầu vẫn còn những hình ảnh của một Đà Lạt xa xưa.

Tôi nghĩ bài viết này với tiếng gọi thống thiết “Thôi rồi… Đà Lạt ơi!” sẽ là bài cuối cùng về vùng cao nguyên Lambiang của ngày nào. Tại sao ư? Mai này Đà Lạt sẽ không còn là địa điểm nghỉ mát của những người đi tìm một nơi bình yên cho cả tâm hồn lẫn cuộc sống. Vì có đi đâu cũng chỉ thế thôi, làm sao tìm lại một Đà Lạt của ngày nào.

Rồi bạn sẽ thấy một Đà Lạt “văn minh, hiện đại”  với những tòa building bê-tông cốt thép đứng ngạo nghễ giữa thành phố mà hồi xưa được mệnh danh là “Paris Nhỏ”. Cũng giống như những thành phố “tân tiến” khác của Việt Nam ngày nay như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng… bạn sẽ gặp một Đà Lạt “đổi mới” từ vật chất đến tinh thần!

Khu Hòa Bình và Chợ Đà Lạt (Ảnh: Bill Robie, 1968)

Ngày 16/3/2019, Sở Xây dựng Lâm Đồng đã bất ngờ công bố quyết định của tỉnh, cái gọi là, “quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị” của khu trung tâm Hòa Bình đã được Thủ tướng phê duyệt.

Theo bản đồ tỷ lệ 1/500, trung tâm Hòa Bình, có diện tích 39 ha, thuộc phường 1. Cụ thể, khu này bao gồm chợ Đà Lạt và đường Nguyễn Thi Minh Khai (6,95 ha); khu trung tâm Hòa Bình (3,37 ha); khu đồi Dinh (4,43 ha); khu chỉnh trang đô thị (9,19 ha) và khu vực ven Hồ Xuân Hương (6,06 ha).

Quan trọng hơn cả là rạp hát Hòa Bình và Dinh Tỉnh trưởng sẽ bị dỡ bỏ, di dời nguyên khối để thực hiện các công trình nằm trong đồ án với ý tưởng chủ đạo trong quy hoạch chung của Đà Lạt: “Thành phố trong rừng – Rừng trong thành phố”!

Chợ cũ Đà Lạt (1945)

Chợ Đà Lạt cũng có một lịch sử gian truân như thân phận nàng Kiều. Khởi đầu là “Chợ Cây” năm 1929 tại khu vực ngày nay là khu Hòa Bình. Năm 1937, một vụ hỏa hoạn đã xảy ra và người ta xây dựng một chợ bằng gạch để thay thế “Chợ Cây”. 

Khi tôi đến Đà Lạt vào năm 1953, “Chợ Gạch” đã dời vào địa điểm “Chợ Tạm” cách đó chỉ vài trăm mét. Tôi còn nhớ rất rõ, chợ tạm lợp tôn ở dưới chân đồi. Đây cũng là nơi mỗi buổi trưa từ trường Nam tiểu học Đà Lạt tôi thường ra sạp bán mũ dạ của mẹ vì nhà ở gần Trại Hầm, cách khoảng 3 cây số.

Cũng tại ngôi chợ tạm này tôi thường được ăn các món quà chợ như bún cà ri của một ông già râu tóc bạc phơ, nhìn tướng thật dữ dằn nhưng ông lại có tính hay pha trò dí dỏm. Còn có món mì quảng của một bà mặc áo dài quảy đôi quang gánh đi khắp chợ. Người Đà Lạt xưa đa số là người Miền Trung nên còn giữ phong cách áo dài của mấy o, mấy mệ khi ra chợ.

Mãi đến năm 1958, một ngôi chợ ba tầng lầu mới được xây dựng, đây cũng là “Chợ Lầu” đầu tiên tại Việt Nam. Chợ được xây dựng trên một vùng đất sình lầy trồng xà-lách-son (cresson) mà người Đà Lạt gọi là “ruộng xà-lách-son”. Chợ do kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức thiết kế, nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu thi công và được hoàn thành năm 1960.

Về sau, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ tham gia chỉnh trang chợ Đà Lạt, đặc biệt là việc thay đổi mặt tiền, thiết kế bổ sung cầu nổi bằng béton dẫn vào hông chợ, khu công viên trước chợ và các dãy phố lầu xung quanh chợ.

Ngôi chợ ba tầng lầu đang trong giai đoạn thi công

Rõ ràng Khu Hòa Bình là trung tâm của Đà Lạt với một ngọn tháp đủ cao để khi người ta vượt qua dốc chợ giữa hai hàng cây anh đào có thể thấy ngay trước mắt. Đó cũng là trái tim của Đà Lạt với mặt tiền là rạp hát Hòa Bình.

Rạp hát Hòa Bình là nơi tôi còn nhớ mãi với kỷ niệm đứng trên sân khấu cùng ban nhạc trường Trần Hưng Đạo trong một buổi văn nghệ liên trường. Chúng tôi biểu diễn những bản nhạc theo phong cách “The Shadows” qua những bài như Apache, Man of Mystery.

Hội trường Hòa Bình cũng là nơi một anh học trò “vô danh tiểu tốt” Từ Công Phụng đứng hát những bài như “Bây giờ tháng mấy”, “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng tác. Họ Từ là một học sinh người Chàm ở Ninh Thuận, lên Đà Lạt học năm Đệ Nhất tại Trần Hưng Đạo. Anh là người ít nói, hiền lành nên các bạn đều quý mến.

Hội trường Hòa Bình là nơi Phụng đứng hát lần đầu trong đời và Đài phát thanh Đà Lạt mang tiếng hát của anh về đến Sài Gòn. Chỉ một năm sau, Từ Công Phụng trở thành một nhạc sĩ được giới trẻ ưa thích trong suốt thập niên 60-70.

Cũng từ Đà Lạt, “nữ hoàng chân đất” Khánh Ly cất tiếng hát và cặp song ca Lê Uyên Phương chinh phục giới trẻ với phong cách tương tự như “Sonny & Cher” bên trời Tây. Phải nói, Đà Lạt là một cái nôi ươm mầm văn hóa, văn nghệ và Café Tùng là một địa điểm gặp gỡ của giới văn nghệ sĩ.

Ban nhạc trường Trần Hưng Đạo – Vĩnh Anh, Huỳnh Bá Tuệ Dương, Nguyễn Ngọc Chính (1965)

Trong hai địa điểm phải bị dỡ bỏ, Dinh Tỉnh Trưởng ít nổi tiếng hơn Khu Hòa Bình. Đối với tôi, một người đã có một thời gắn bó với Đà Lạt, điều này cũng dễ hiểu. Tòa nhà hai tầng được người Pháp xây dựng từ năm 1910 và sau đó được sử dụng vừa làm nơi ở cũng như làm việc của Tỉnh trưởng Tuyên Đức trước đây.

Ít người để ý vì đây là cơ quan công quyền, chỉ những người có việc phải đến mới nhận ra vẻ uy nghi của tòa nhà. Sau năm 1975, có thời gian Dinh được sử dụng làm Bảo tàng Lâm Đồng, nhưng không hiểu vì lý do gì mà sau đó bị bỏ hoang.

Năm 2011, tỉnh Lâm Đồng có chủ trương giao cho một nhà đầu tư tôn tạo công trình để khai thác kinh doanh, tuy nhiên cũng không đem lại hiệu quả, toà dinh thự tiếp tục bị bỏ hoang, trở thành nhà kho chứa đồ đạc.

Thật ra dinh thự này đã chìm dần vào quên lãng và chỉ khi có quy hoạch tháo dỡ người ta mới bắt đầu chú ý đến. Âu đó cũng là tâm lý người đời: chỉ khi nào biết sẽ bị mất người ta mới thấy quý!

Dinh Tỉnh Trưởng ngày nay sau hơn 100 năm hiện hữu

Có hai luồng ý kiến trái ngược nhau giữa việc bảo tồn hay dỡ bỏ những di sản. Những người chủ trương dỡ bỏ có cái lý của họ khi nghĩ đến hình ảnh một Đà Lạt trở thành một thành phố năng động với các tiện nghi của thời kỳ hiện đại.

Hình như người ta quên rằng Đà Lạt là một thành phố du lịch với khí hậu mát mẻ và địa điểm lịch sử hấp dẫn đối với cả những khách trong và ngoài nước. Du khách sẽ không tìm đến nơi đây vì những trung tâm thương mại mới xây dựng vì đó là những hình ảnh họ có thể tìm thấy ở những thành phố nổi tiếng khác.

Chi bằng, một mặt ta cứ hài lòng với những gì mình có, mặt khác nâng cao trình độ quản lý và điều hành du lịch để thu hút khách phương xa. Cũng cần nói thêm, sự hợp tác của cư dân địa phương là một trong những yếu tố quyết định sự thành công trong việc thực hiện những chính sách du lịch thuận lợi cho toàn tỉnh. Vì đó là “nồi cơm chung” cho toàn thành phố.  

Đà Lạt ngày xưa lúc bình minh ló dạng

Tin mới nhất cho biết, Phó chủ tịch hội Kiến trúc sư Lâm Đồng đã tuyên bố đồ án quy hoạch cho thành phố Đà Lạt mới chỉ là “gợi ý”“vẫn có thể chỉnh sửa được”. Kiến trúc sư Lê Tứ cho biết:

“Khi quy hoạch Đà Lạt mở rộng, trong đồ án chung có xác định vùng lõi cho Đà Lạt cũ, trong đó có khu trung tâm Hòa Bình. Theo quy định pháp luật phải làm từ quy hoạch chung đến quy hoạch chi tiết, phạm vi trung tâm này đã được xác định, cần rà soát, xem xét lại, chỉnh trang để đáp ứng nhu cầu mới dưới sự kiểm soát của cơ quan chuyên ngành”.

Cái mà người dân lo ngại là “kiến trúc kiểu nhà kính” của một trung tâm đa chức năng với các loại hình dịch vụ và giải trí hãy còn quá xa lạ và không phù hợp với hiện trạng của Đà Lạt. Có nên đặt kiến trúc này vào vị trí của rạp hát Hòa Bình hiện tại hay không?

Người dân cũng đồng quan điểm khi cho rằng Dinh Tỉnh Trưởng là một công trình có giá trị về mặt kiến trúc cũng như lịch sử. Việc thay thế tòa nhà này bằng một khối khách sạn sẽ trở nên quá xa lạ với kiểu… “mái úp tròn”. Có nên thực hiện việc hoán đổi này hay chăng?

Dân gian ta có câu cảm thán “Thôi rồi Lượm ơi!” để chỉ lời than khi mọi chuyện xảy ra không như ý mong muốn. Xin đừng biến câu nói này thành “Thôi rồi… Đà Lạt ơi!”.

 Hồ Xuân Hương và Cầu Ông Đạo

***

Tham khảo:

·         Bài viết “Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du”: chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/a-lat-suong-mu-nam-thang-ngao-du.html

·         Bài viết “Hồi ức về một người thân”: chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/hoi-uc-ve-mot-nguoi-than.html

·         Bài viết “Tiếng còi tầu thời thơ ấu”: chinhhoiuc.blogspot.com/2018/12/tieng-coi-tau-thoi-tho-au.html

·         Bài viết “Đà Lạt sương mù: Quê hương thứ hai”: chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/a-lat-suong-mu-que-huong-thu-hai.html

·         Bài viết “Đà Lạt sương mù: Đất lành chim đậu”: chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/a-lat-suong-mu-at-lanh-chim-au.html

·         Bài viết “Ai lên xứ hoa đào…”:
     chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/ai-len-xu-hoa-ao.html

·         Bài viết: “Đôi điều về Đà Lạt sương mù”:
chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/oi-ieu-ve-lat-suong-mu.html

***

--> Read more..

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2019

Nghĩ quẩn…

Nếu mai đây tôi có qua đời
Xin trả nợ đời và những món nợ không vay
Trả hết cho đời những nhân tình thế thái
Thanh thản ra đi để về cõi vĩnh hằng.
  


Trả hết cho người những yêu thương nồng ấm
Những ngọt ngào và cả những chua cay
Biết sao đây từ cái phút giây này
Rồi vĩnh viễn đi vào miền quên lãng.

Tôi vẫn biết ra đi là vĩnh biệt
Giã từ rồi không một chút băn khoăn
Niềm vui và nỗi buồn dắt tay nhau vào quá khứ
Để lại cho đời khúc hát dở dang.

  
Dù Bạn hay Thù cũng chỉ là hư ảo
Người ra đi chẳng chút lyến lưu gì
Những người thân cũng chỉ là món nợ
Khi bước đi là trả hết cho đời.

Xin cám ơn đời lâu nay nuôi dưỡng
Ngoài bảy mươi đã quá đủ một đời
Cám ơn người đã lâu nay chịu đựng
Vĩnh biệt người… tôi thanh thản ra đi.

  
Thơ tôi viết những dòng không niêm luật
Trả lại đời những ý tưởng bâng quơ
Đừng bảo rằng tôi đang… nghĩ quẩn
Có gì đâu… thế mới gọi là thơ!

(12/03/2019)

***

--> Read more..

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2019

Sài Gòn… “tạp pín lù” (2)


(Phần 2)

Trong Phần 1, chúng ta mới đọc được đoạn đầu hồi ký của bà V.A… tác phẩm “Sài Gòn tạp pín lù” của Vương Hồng Sển. Cũng chỉ vì ao ước có một chiếc kiềng vàng như cô chủ sự nên cô gái quê đã lạc bước vào thế giới ăn chơi.

Chỉ 3 ngày sau lần gặp gỡ dưới ghe, V.A. đã tìm đến nhà cô chủ sự ở gần nhà lồng chợ Mỹ (Mỹ Tho) để mong “đổi đời”! Cô chủ sự đon đả:

“Ủa nầy, em. Tội nghiệp thì thôi. Mắc hồi hôm lỡ thức chơi bài... phải qua ngủ nướng thêm chút nữa chắc nhọc lòng em chờ đợi, hoặc qua đã mất dịp gặp em mà qua hằng trông đợi”.

Nhà lồng chợ Mỹ Tho xưa

Cô dẫn V.A. đi khắp nhà mình, kể cả phòng tắm, cầu tiêu… chỗ nào cũng sang trọng, lịch sự. Trước mắt V.A. là cuộc sống vàng son, nhung lụa của chủ nhà và cô gái quê nghĩ thầm trong bụng:

“Người ta cũng thì người ta như mình, mà người sao ăn sung mặc sướng đủ điều, đã chẳng làm gì cho đụng móng tay, mà chuỗi kiềng đeo không hết, quần áo chẳng thiếu gì. Lại còn bài bạc thâu đêm, rồi ngủ cho trưa trờ trưa trật. Còn mình đây, sao lại cực khổ mãn đời: nồi cơm, trách cá, xắt chuối nuôi heo, một ngày chí tối làm không hở tay, xin có một cây kiềng, mà mấy tháng nay xin hoài không được”.

Thế là “cá đã cắn câu”. Cuộc gặp gỡ kết thúc với với lời hứa hẹn một tương lai huy hoàng từ miệng cô chủ sự:

“… em cứ nghe lời qua, về đừng cho ai hay, lo tom góp áo quần cho sẵn. Bất kỳ là ngày nào, hễ em lên tới đây, thì qua sẵn có thế tiện giúp em lập cuộc đời như qua đây không khác”.

Như có một ma lực, cô gái ngây thơ trốn gia đình và đến với cô chủ sự. Hai người đi tầu lục tỉnh để lên Sài Gòn. Hồi mới 8 tuổi cô đã có một lần đến Sài Gòn… Khi đó là năm 1913, năm vừa xây xong chợ mới Bến Thành và có một buổi lễ khai trương thật long trọng.

Đó cũng là năm tía cô trúng mùa được mấy chục giạ nên đưa cả hai mẹ con cô lên Sài Gòn cho biết “đèn khí đá”, “đèn dầu”  và thứ đèn mới ra sao. “Đèn mới có không cần tim nà vẫn sáng hơn hai thứ đèn kia, dùng “điện lực” mà sao gọi là “đèn khí”… là khí gì, ác thật”.

Đó cũng là năm lần đầu trong đời cô được thấy “sao chổi” mà sau này mới biết là “sao chổi Halley”. Đó cũng là “điềm báo hiệu” năm sau xảy ra trận giặc Đức (Đệ nhất thế chiến, 1914-1918). Giờ ngồi viết lại hồi ký, bà V.A. nghiệm lại đúng là lần lên Sài Gòn lần thứ hai cũng là điềm cho một cuộc đời… giang hồ!

Chợ Bến Thành xưa

Tàu cập bến Sài Gòn, cô chủ sự thuê xe kéo đến nhà một người đàn bà lớn tuổi mà cô gọi bằng “má” ở đường Bồ-rệt (Boresse, nay là đường Calmette). Hai “má con” đưa nhau vào phòng trong, nói chi không rõ, giây lát trở ra cô căn dặn V.A. ở lại đây với má Tư Hớn ít ngày: “Ở đây với má, má sẽ thương như qua đây thương em vậy…”

Má Tư Hớn cũng xởi lởi: “Chị em với con Bảy chủ sự thì cũng như con ruột một nhà, vậy con cứ ở, đừng ngại ngùng chi cả”. Cô chủ sự còn dặn dò V.A. trước khi vào Chợ Lớn rằng mọi việc ráng sao cũng phải tin cậy và nghe lời má Tư, thì mới hòng nên thân. Cô nói:

“Nội Sài Gòn đây có ai lanh lợi và quen lớn với nhiều ông nhiều thầy cho bằng má Tư, như chị đây năm xưa xuất thân cũng nhờ má Tư sắp đặt cho nên ngày nay mới rỡ ràng sung sướng và có địa vị như ngày hôm nay làm vậy!”

Khi cô chủ sự đi khỏi, bỗng có một tốp mấy ông mấy thầy kéo vào nhà, ông nào ông nấy xem đã ngà ngà, nói với nhau tiếng Tây lốp bốp, kẻ kêu “dì”, người gọi “má”, om sòm. Ở chưa được một tuần, một hôm má Tư nói nhỏ với V.A.:

“Nay có thằng Hạch người Chà [Chà Và, Ấn Độ], quản gia trong nhà máy xay lúa lớn trong Chợ Lớn, giàu lắm, nó muốn cưới con về làm vợ, với một cây kiềng đúng một lượng và hai lượng chuỗi hột quấn tay, con nên ưng nó đi mà lập thân, chỗ nầy được lắm, nên nghe lời má, thuở nay má ăn chay niệm Phật, tạo lập không biết bao nhiêu gia đình như vầy, tụ thiểu thành đa, không nên già kén, mà bỏ qua dịp tốt”.

Thế là cuộc đời “giang hồ” của V.A. bắt đầu từ đó. Suy cho cùng, cô mới 18 tuổi, tứ cố vô thân, bụng không muốn cũng chẳng dám từ chối. Huống chi mụ nầy, giọng kèn tiếng quyển, thật dễ xiêu lòng, lại nghe có kiềng, có chuỗi thì còn chê bai gì nữa nên cô gật đầu ưng đại. V.A. viết trong hồi ký:

“Đêm tân hôn, nay nhớ lại còn rùng mình. Đúng là thuyền nan lâm bão lớn, tấm thân trong ngọc trắng ngà, giá kể ngàn vàng, nói theo văn Kiều, đành để “hồng ngâm chuột vọc”. Mà con chuột nầy nó không vọc, nó nghiến răng xàm xạp.

“Hạch tuy không thương được nhưng ở rất biết điều. Va mướn cho tôi một căn phố không xa nhà má Tư Hớn là mấy, cái nầy là tại tôi đòi y theo lời má Tư căn dặn. Y mua bàn mua ghế và tập tôi ăn cà ri, chu choa, ban đầu cay xé miệng, mà nay gặp không cay tôi không thèm rớ, mới kỳ!

“Nghe tôi đòi muốn ở gần má, ban đầu anh Hạch vùng vằng, song thét rồi cũng ưng, vì anh mê tôi như điếu đổ, muốn gì được nấy. Quả là anh Hạch thương tôi một cách thật tình, và nói nhỏ mà nghe, ban đầu tôi không cảm, nhưng chưa đầy bốn tháng, anh sắm cho tôi áo quần chật tủ, vàng, chuỗi có rồi.

“Từ cảm vừa vừa đến mến, rồi qua thương, tình Hạch - Việt cà ri thịt kho, tôi tập ảnh ăn nước mắm, ảnh nín mũi queo râu, thấy dễ tức cười, vợ chồng cách nhau hơn hai con giáp tôi mười tám xuân, ảnh tròm trèm bốn chục, tôi bắt mùi quen ăn “nị” [cà-ri nị của Ấn] tưởng cùng nhau sẽ nối tóc đến già.

“Ảnh làm việc trong nhà máy xay lúa trong Chợ Lớn Bình Tây, tử ngày đụng tôi, ảnh xin đổi phiên gác không gác tối nữa và làm việc ban ngày, đêm nào cũng về, vì vậy ban ngày ở nhà một mình buồn, tôi thường lại nhà má Tư để giải khuây, ngờ đâu má cò máy với mấy chị trong nhà ra ngón độc bày đặt rủ ren cờ bạc.

“Ban đầu đánh nhỏ thì tôi ăn, gọi là chơi vị tình, sau lần hồi gầy sòng đánh lớn, tôi bị gài vào bẫy, dính ăn dính thua, say máu ngà, bữa nào chiều về nhà cũng sạch túi. Cái nghề cờ bạc, nóng mũi nên phái gỡ, gỡ đâu không thấy, ngày càng lậm, hết chục nầy tới bạc trăm kia thét rồi tới cầm đồ, cứ nay một chiếc, mai mốt cầm một đôi, không đầy hai tháng trời, bao nhiêu chuỗi vàng kiềng chạm đều ton ráo, hoá ra giấy biên lai cầm đồ chú Hoả, ráo nạo”.

(hết trích)

Người Chà Và (Ấn Độ) ở Sài Gòn xưa

Chuyện của bà V.A. còn dài, còn nhiều tình tiết ly kỳ… Chẳng hạn như má Tư Hớn ra giá 300 đồng bạc lớn để anh Hạch “phá trinh” V.A. Đến khi gặp mặt, thấy người con gái quê non nớt, anh không đành lòng. Anh bàn qua việc cưới làm vợ, dì Tư lập tức lên giá năm trăm bạc chẵn!

Má Tư Hớn đúng là một mụ Tú Bà “đầy kinh nghiệm” với trăm phương nghìn kế. V.A. đã vào tay mụ thì hết đường thoát thân. Sau vụ anh Hạch, “má” còn đạo diễn nhiều cuộc gả bán khác và cứ như thế, “cuộc đời nàng Kiều thời Pháp thuộc” trải qua những giai đoạn bi thảm của kiếp… hồng nhan đa truân!

Ly kỳ nhất là đoạn V.A. đi tu (nhưng lại không xuống tóc)! Cô xuống tận Tây Ninh, lên núi Bà Đen và tìm đến Chùa Bà. Ngày xưa Kiều cũng đã đi tu, gặp vãi Giác Duyên, đến thời của V.A. cô cũng xin với hòa thượng trụ trì:

“Bạch rằng tôi có lời nguyện, xin hoà thượng mai nầy cúng cho tôi một ngọ và cho phép tôi để tóc, chụp mủ ni, ăn chay niệm Phật, tu tại đây và tôi đặt tiền cúng là năm trăm đồng bạc, xin hoà thượng nhận dùng vào hương khói cho Bà, cho tôi qui y, ở đây, quyết làm tôi Phật cho tới răng long tóc bạc”.

Nguyên cốt Bà là một tượng đá cổ, cao bằng hai gang tay. Bà ngồi tham thiền và tượng đặt trong một hốc đá. Điện thờ không xây bằng gạch như ngày nay, chỉ là một hang đá khá rộng nhưng tôn nghiêm.

Lên ở chùa chưa được nửa tháng, chay lạt vừa quen, tuy kinh kệ chưa thuộc nhưng với quyết tâm tu luyện. Thế nhưng, hình như nợ trần chưa trả hết nên có lời ra tiếng vào. Nhất là bà mãi biện (bà vãi) có nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn trong chùa. Bà nói:

“Cái tuồng mặt coi còn bén ngót, khéo nói chuyện gõ mõ tụng kinh, làm dâu cửa Phật, khéo bán dạng thuyền quyên, trêu ngươi bẹo chúng… Thiệt khéo thì thôi… Tôi nói đây để cho mấy bà về ăn trầu gẫm lại coi: thét đây khi mai mà chùa nầy không khỏi trở nên nhà bảo sanh mà chớ?”

Cuối cùng thầy trụ trì phân trần lúc V.A. rời chùa:

“Mô Phật…. Đồ đệ có lòng đem của cúng Bà, thôi, một tấm lòng thành Bà cũng chứng cho, lựa là phải để bạc lại làm chi…. Người đời, hoạn nạn là thử thách. Kẻ nào khóc nhiều kẻ đó sống nhiều… Đồ đệ vui lòng đứng chấp nhứt mụ vãi ngu xuẩn kia, coi vậy chùa nầy không có vãi ấy cũng không xong!”


Chùa Điện Bà trên núi Bà Đen ngày nay


Nhưng thôi, hãy nói qua chuyện của Vương Hồng Sển. Như đã tiết lộ trong Phần 1, tác giả đã điểm qua “những người đẹp” trong khoảng những năm 1920-1935, trong đó nổi bật nhất là hai cô Ba Trà và Tư Nhị, một cặp bài trùng về nhan sắc nhưng lại khác nhau về hậu vận. Người ta bảo đó là cái số của từng ngưới.

Trong đoạn mang tựa đề “Những gì tôi biết về cô Ba Trà, tức Trần Ngọc Trà, huê khôi số một ở Sài Gòn, khoảng 1920-1935”, tác giả kể lại lần đầu tiên được chứng kiến dung nhan “người đẹp”:

“Ngày mồng một tháng ba dương lịch 1924, đĩ xem hát cải lương tại rạp Modern, đường d’Espagne, là lần tôi được ngồi gần cô Ba Trà, lúc ấy đang sáng chói trong tiền, trong nhan sắc, và sắm xe hơi có tài xế phụ, để dành mở cửa. Cô Ba ngồi một dãy ghế thượng hạng với bác sĩ Lê Quan Trinh, ông toà Trần Văn Tỷ và thầy Sáu Ngọ, tức Paul Daroll, “vua cờ bạc lừng danh thuở ấy”.

“Trớ trêu thay, bên tay mặt và sát ghế cô là ghế của kẻ nầy. Cô ngồi xem mà mùi nước hoa làm tôi ngây ngất và khi nửa chừng cô ra về, tôi hết biết trên sân khấu hát ca những gì. Cô Ba Trà vụt lên như diều gặp gió lên xe xuống ngựa mấy chục năm trường…  tôi thì một rương sách, một túi áo quần, để sau còn đùm đề thêm ba cái đồ sành cũ ưa bể và nứt rạn...”.

Mấy chục năm sau, y như trong giấc chiêm bao, cô Ba Trà và Vương Hồng Sển tình cờ gặp lại lần thứ hai, nơi một sòng tài xỉu ở Đại thế giới Chợ Lớn. Cô thì đã mất phong độ năm nào nhưng sau khi tay bắt mặt mừng, cô hỏi nhỏ nhan sắc cô nay kém hơn trước tới bực nào. Vương Hồng Sển đáp tỉnh bơ:

“Đối với tôi, tôi chỉ biết cô là người y như hình chụp treo trong tủ kiếng trước cửa nhà “photo Khánh Ký” đường Bonard, lúc tôi còn học trường Chasseloup, mà mặc trời mưa trời gió, chúa nhựt nào tôi cũng phải ra trường đến ngắm tiên dung rồi mới trở về trường ăn ngủ được… và đã khiến tôi thành thi sĩ, xin lỗi, thành thợ thơ nọ”.

Câu nói ấy khiến Ba Trà cười, hai hàm răng vẫn trắng đẹp như xưa. Và cũng từ đó, cô thâu dụng tác già làm “bí thư không nhận lương” suốt một thời gian khá lâu. Cô Ba Trà kể lại cuộc đời mình cho Vương Hồng Sển, lại còn viết thêm một câu “làm bằng” cho bài viết:

“Tôi, Trần Ngọc Trà, tự Cô Ba Trà, bằng lòng cho báo “Tiếng Dội” đăng về cuộc đời của tôi, từ buổi thiếu thời đến nay, chính tôi thuật cho người đại diện báo “Tiếng Dội” nghe chuyện của tôi để đăng báo”.

Sài Gòn, le 9-5-1952. Ký tên: Trần Ngọc Trà”

Cuộc đời cô chỉ xin tóm gọn đôi dòng. Năm 9 tuổi cô vẫn chưa đi học, năm 14 tuổi cô được bán cho “quan ba y sỹ” người Tây (mua làm vật tiêu khiển mà đến cái tên của ông cô cũng không nhớ nổi). Quan Tây về nước một năm sau cô lại lấy một anh chồng người Tàu, vừa ích kỷ lại vừa lận đận, lao đao.

Chú Toàn (có cha người Hải Nam, tỷ phú ở Phan Rang, mẹ người Qui Nhơn) là mối tình đầu đời của cô. Toàn chỉ là một con ong ham hoa mới, một con bướm chuộng hoa lạ. Toàn lại theo phong tục của Tàu: vợ nhà, vợ bé, mèo chuột… khi cô khởi sự biết ghen thì Toàn lại càng luông tuồng.

Mẹ cô (một người đàn bà… ác độc khi người cha mất sớm) phản đối cuộc hôn nhân này nên năm 17 tuổi cô sống tạm bợ để giữ chữ Hiếu với mẹ và chữ Tình với chồng! Ba Trà còn có biệt danh “Cô Ba Chả Giò”  khi cùng mẹ buôn bán trên xe lửa Sài Gòn – Phan Thiết!

Rồi cuộc đời cô “phất lên” như diều gặp gió trong thế giới ăn chơi của Sài Gòn xưa. Đó là một thế giới khép kín với những chuyện tình rất “đời thường”, chuyện cờ bạc thắng thua có thể đi đến tán gia bại sản và thêm một chất khói đưa vào mộng ảo phù dung: thuốc phiện.

Năm 1923, cô Ba đã là một nàng tiên trên dương thế, cô lên như diều gặp gió. Chiều chiều cô ngồi một mình trên chiếc ô tô mui trần lộng lẫy, phía trước có hai người tài xế: một tài xế chánh để lái xe, một tài xế phụ để mở cửa xe. Ba Trà sang trọng không thua gì Thống đốc Nam kỳ vì chỉ có ông mới có hai tài xế cho chiếc “Delage six cylindres” mang số hiệu đặc biệt “C.20”.

Bản thân Ba Trà không có “máu đỏ đen” nhưng cô xuất hiện tại Đại thế giới như một cứu tinh cho những kẻ thua bạc. Cái nghề “xanh xít đít đui” (cinq, six, dix, douze) sẽ cứu giúp những kẻ “vận đen” với điều kiện tỷ lệ lãi là 10% số tiến “cấp vốn” tính theo ngày!

Danh sách người tình của cô Ba Trà có công tử Lê văn Phước, còn gọi là “Cậu Tư Phước Georges” và giới ăn chơi Sài Gòn thời đó đặt cho cậu mỹ danh “Bạch Công Tử” vì cậu trắng trẻo, đẹp trai.

Georges có bụng dạ rộng rãi và đối xử với bọn nghèo đã không khinh khi mà còn giúp đỡ nhiều bề. Thiếu nón đội, cậu cho nón Fléchet mới và đắt tiền cậu cũng không tiếc. Thiếu tiền xài, cậu giúp, và khi gánh hát diễn tuồng trên sân khấu, cậu cho mượn bộ ghế sa lon của cha để lại và diễn xong cậu không đòi lại…

Cũng vì sự hào phóng của công tử nên chỉ vài năm ruộng vườn, nhà cửa đều theo ngón hào hiệp của cậu mà bay tứ tán... Cậu chỉ được cái danh “dám ăn, dám xài” và dĩ nhiên người đẹp bu quanh cậu có đến hàng tá.

Ngược lại với Bạch Công Tử là Hắc Công Tử, một người có nước da ngăm ngăm vì xuất xứ từ vùng ruộng muối. Hắc Công Tử lớn tuổi hơn Georges nhưng việc xài tiền thì cả hai công tử được phân định là “bên tám lạng, bên nửa cân”.  

Mất một tờ giấy năm đồng trong rạp hát, Hắc Công Tử bỏ coi diễn để lo mò kiếm “tờ giấy bạc con công” (5$00), trong khi Bạch Công Tử ngồi kế bên, miệng cười hề hề, tay móc túi đốt tờ giấy hai chục (20$00) dùng làm đuốc rọi để… tìm 5 đồng!

Uy danh cậu Ba Hắc Công Tử có phần kém hơn cậu Tư Bạch công tử vì ăn nói có vẻ khinh người, ưa “mầy tao mi tớ”. Tư Phước ngọt với em út bao nhiêu thì cậu Ba cũng ngọt với bồ bịch bấy nhiêu, duy “chiến lược” mỗi chàng mỗi khác. Cậu Tư chuộng người phải cho đẹp, cậu Ba chọn người phải cho “ngon”, phần đông tuyển trong hàng gái vườn, chân chưa rửa sạch phèn.

Vương Hồng Sển viết:

“Ông hội đồng Rạch giá và cậu nhà giàu Cần Thơ ở trên nầy [Sài Gòn]  trót tháng, rốt lại phải từ giã cô Ba, để mạnh ai về xứ nấy, kẻ luyện phi đao, người luyện phi bạc, chỉnh tu binh mã để kỳ bãi trường tới rước con về sẽ chiến đấu tranh nhau hôn cái da non của bàn tay mềm mại của cô Ba, thành ngữ đổ quán xiêu đình, vào khoảng 1920-1945 nên đổi lại “xiêu điền nát ruộng” cũng vì đua nhau tranh tiếng hảo “có ngủ, có gần cô B. người đẹp số “dách” đất Sài gòn”.

Người đẹp Sài Gòn xưa

Nồi bật trong số người tình của cô Ba Trà là Philippe Franchini, chủ của Continental Palace mà ngày nay là Khách sạn Continental, bên hông Nhà hát Thành phố. Ba Trà tâm sự với Vương Hồng Sển: “Lấy Franchini, về vật chất không thiếu món nào, nhưng ông Tây nầy cưng vợ theo Tây, mà nước ghen lại là nước ghen Á Đông thuần nhứt!”

Một hôm Franchini đi khỏi, cô Ba nhập sòng, và vận đang đỏ, cô trúng một hơi vét sòng. Cô đi ngay lại hãng xe, sẵn tiền cô kéo về một chiếc ô tô hiệu Alfa-Roméo của Ý, giá 11.000$, mắc gấp đôi xe Hotchkiss giá 4.000, mắc gấp ba xe Citroen bảy chỗ ngồi, hoặc FIAT mui kiếng limousinet bốn chỗ ngồi giá 2.700$.

Cô Ba kéo xe về, Franchini bảo cô Ba đem xe ra ngay đường Catinat để “khai quang điểm nhãn” bằng một chai champagne. Giống như lễ hạ thủy một chiếc tàu, cô tự cắt dây băng cho champagne đụng vào đầu xe!

Sẵn xe mới cốt ý để khoe ngón phong lưu và cũng nhờ thế lục của Franchini, cô Ba Trà sang tận Cao Miên mở sòng bài. Người ta đồn rằng cô thua bài quá nhiều nên đi vơ vét các tay chơi ở tỉnh!  

Đến hồi vận đen, cô Ba đã có lần tự tử nhưng được cứu sống tại nhà thương cấp cứu trên đường Bonard (Lê Lợi). Đó chính là Bệnh viện Saigon do Chú Hỏa xây dựng và sau này là Trung tâm cấp cứu, xế bên chợ Bến Thành.

Cũng trong thời kỳ chung sống với Fanchini, cô Ba gặp một người con gái đến làm quen trong rạp hát. Ba Trà vừa giận vừa vui với câu cô gái nhắc lại lời của mẹ mình: “Thà làm đĩ, ra chơi bời như cô mới đáng gọi là gái ngoan!” Theo mô tả của Vương Hồng Sển:

“… Đây là một cô gái mơn mơn đào tơ hết sức trẻ, tròn trịa như con chim chàng nghịch óc cau đầu mùa lúa trổ, ngực tròn như cặp tuyết sơn muốn xé hàng sọc dưa rằn ri tung ra, trán thấp có mở tóc quăn xoắn che lúp xúp ngỗ nghịch nhiều hơn phục tùng, cặp mắt mơ màng tình tứ, nhứt là cặp môi dày đỏ mọng, nửa mời mọc nửa khiêu khích, đúng là một con đĩ mén mất dạy, ăn nói như hồi nãy, nhưng mặn mòi duyên dáng một cách rừng rú, khiến không giận được với con “ba trợn” nầy. Sau rõ lại nàng ta từ Nam Vang xuống, cha Cơme, mẹ người Sa Đéc, có chút “pra hóc” (mắm bò hóc) pha với chút sắc bén của gái Nha Mân xưa từng được Cao Miên tuyển vào cung vua đàng Thổ, thảo nào!”

Ba Trà đem cô nầy về, anh Franchini không nói không rằng, vui vẻ chấp nhận. Nhân đi xem tuồng chớp bóng sau đó, thấy trên màn bạc một nữ diễn viên Pháp duyên dáng và có hình dáng giống giống cô gái nên anh đặt tên cho cô là Marianne (tên cô đào trên màn ảnh), để đối với tên của cô Ba là Yvette. Lại còn đặt tên cô là thứ tư, Tư Nhị, chớ Nhị vốn thứ hai, con cả đầu lòng xứ Nam Vang ăn mắm bò hóc! 

Từ đó, vòm trời Sài Gòn mọc một ngôi sao mới, tuy không sáng chói bằng sao Ba Trà, nhưng đối với khách ham lạ, ham trẻ thì Tư Nhị Marianne vẫn mới vẫn giòn, vẫn mát da mát thịt hơn, dầu gì cũng mới.

“Nhị đào vẹn vẻ đường tơ,
Trà mi kia đã sởn sơ gần chiều”.

Dấu ấn của Franchini tại Sài Gòn: Continental Palace

Vương Hồng Sển là một trong số ít nhà văn thời VNCH nhưng vẫn có sách xuất bản sau năm 1975. Sự nghiệp văn học của ông khá đồ sộ với hàng chục tác phẩm đã xuất bản, trong số đó có một số sách khá nổi tiếng như Thú Chơi Sách (1960), Sài Gòn Năm Xưa (Tập I, II – 1960; Tập III – 1992), Hồi Ký 50 Năm Mê Hát (1968), Phong Lưu Cũ Mới (1970), Thú Chơi Cổ Ngoạn (1971), Hơn Nửa Đời Hư (1992).

Thực ra, “Sài Gòn tạp pín lù” không chỉ “vô hà trật tự” theo ông tự đánh giá… mà văn phong còn lẩm cẩm và lủng củng nữa. Nhiều ý tác gỉa cứ lập đi lập lại, chẳng có đầu có đuôi. Rất nhiều độc giả đã rất thất vọng khi đọc cuốn sách...

Có thể ông viết khi tuổi đã cao nên có phần nào lẩm cẩm. Sách được xuất bản lần đầu năm 1992, lúc đó ông Vương Hồng Sển đã là một cụ gìa 90 tuổi rồi nên việc ông có lẩm cẩm, viết lách “vô hà trật tự” thì cũng là điều dễ hiểu.

Có những chuyện ông đã viết ở phần trên, nhưng rồi ông lại lập lại chuyện đó ở chỗ khác. Có thể nhà xuất bản đã in sách của ông chẳng qua chỉ vì cái tên Vương Hồng Sển đã nổi tiếng, nhiều người biết đến.

Trước đó, ở Miền Bắc có “ông vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng với những tác phẩm về “chị em ta” như Làm đĩ, Lục xì, Kỹ nghệ lấy Tây… nhưng đó chỉ là cách viết phóng sự về mặt trái cuộc sống ở Hà Nội.

Dù sao đi nữa, với thành tích “hơn nửa đời hư”, Vương Hồng Sển đã đưa người đọc vào thế giới phấn son, cũng nhờ vậy mà ngày nay ta có thể ung dung ngồi đọc những dòng hồi ký của những người đẹp để phần nào hình dung được thế giới ăn chơi của Sài Gòn xưa.

Vương Hồng Sển qua nét vẽ của họa sĩ Tạ Tỵ (1963)

***
--> Read more..

Popular posts