Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Du xuân Xứ Quảng: Thánh địa Mỹ Sơn

"Một ngày biếc, thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời.
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian,
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.
Đây những cảnh ngàn sau cây lá ngọt
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi;"
(“Trên đường về” / Tập thơ “Điêu Tàn”
Chế Lan Viên)

Tôi vốn thích thơ Chế Lan Viên, một nhà thơ Xứ Quảng, qua tập thơ “Điêu Tàn” được xuất bản từ năm 1937. “Điêu Tàn” ra mắt người yêu thơ khi tác giả mới 17 tuổi và tập thơ đầu tay đã đưa Chế Lan Viên vào vị trí “Bàn thành Tứ hữu” của Bình Định bên cạnh những tên tuổi nổi tiếng khác của Xứ Quảng: Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn (1).

Nguồn cảm hứng của Chế Lan Viên khi chập chững bước vào thi đàn là những tháp Chàm miền Trung đổ nát, là những “hồn ma bóng quế” kinh dị của xứ Hời ngày nào như vẫn còn vất vưởng trong cảnh điêu tàn của những tháp đền cổ nằm rải rác khắp miền Trung.


Chế Lan Viên của thời tiền chiến được người yêu thơ biết đến qua cái mà ông gọi là “Trường thơ loạn” với tâm trạng hoài cổ, nuối tiếc một vương quốc Chiêm Thành hùng mạnh, một thời vàng son của Chế Bồng Nga đã từng 4 lần tấn công Đại Việt.

Tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định

Tháp Bằng An, Điện Bàn, Quảng Nam

Tháp Po Klaung Garai, Phan Rang, Ninh Thuận

Di tích tháp cổ của Chiêm Thành nằm rải rác dọc bờ biển miền Trung, từ Quảng Nam trải dài xuống tới Khánh Hòa. Những ngọn tháp đều có chung một đặc điểm: nằm u tịch và cô đơn trên những cánh rừng hoang, cách biệt hẳn với sự náo nhiệt của những thành phố hay thị trấn ngày nay.

Không như những tháp chàm khác, duy nhất tại Việt Nam và cũng là của vùng Đông Nam Á, có một khu quần thể kiến trúc tháp và đền Chàm cổ nằm cách Đà Nẵng khoảng 70 km. Nơi đây là một tổ hợp bao gồm hơn 70 đền đài, tháp cổ chiếm một thung lũng có đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi hoang vu. Khu di tích này được gọi là “Thánh địa Mỹ Sơn”.

Đây đã từng là nơi hành lễ cúng tế của vương triều Chiêm Quốc và cũng là lăng mộ của các vị vua xứ Hời hay hoàng thân, quốc thích. Các công trình kiến trúc được tạo dựng suốt 9 thế kỷ, từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.

Bản đồ Thánh địa Mỹ Sơn

Chỉ có 3 người chúng tôi đến Mỹ Sơn – tôi, con rể và người tài xế - nhưng lại chỉ có 2 người chịu khó lội bộ hết các khu vực chính mang ký hiệu từ A đến H còn tài xế thì nói là anh đã đến Mỹ Sơn nhiều lần nên thoái thác đi thêm lần nữa!

Phải thành thật mà nói, đối với người lớn tuổi như tôi, công sức bỏ ra để đi khắp Thánh địa là một… cố gắng “vượt bực” giữa trưa nắng gắt miền Trung lúc nào cũng hầm hập. Dù sao đi nữa, đó là một kỷ niệm đáng nhớ khi được lang thang giữa những tòa tháp cổ, dấu tích của một thời vàng son của vương quốc Đồ Bàn đã tàn lụi. Người Chàm ngày nay chỉ còn độ 150.000 người sống rải rác tại các tỉnh miền Trung, ngoài ra còn một số ít định cư tại nước ngoài.

Ngay tại cổng vào có một nhà hát bỏ túi. Khi chúng tôi đến thì chương trình ca nhạc của người Chàm đã đi vào tiết mục cuối cùng, chỉ kịp bấm một kiểu ảnh là kết thúc. Hình như đó là một vũ điệu Apsara…

Chương trình ca nhạc giúp vui

Việc bảo tồn Mỹ Sơn được khởi đầu từ người Pháp vào năm 1937. Trong giai đoạn này, đền A1 và các đền nhỏ xung quanh đã được trùng tu. Từ năm 1939 đến 1943, cụm tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Tuy nhiên, nhiều tháp và lăng mộ đã bị phá hủy vì bom đạn trong Chiến tranh Việt Nam.

Phần lớn các đền đài trong các nhóm khu vực trung tâm như B, C và D còn tồn tại, và mặc dù rất nhiều pho tượng, bệ thờ và linga đã bị lấy về Pháp hay gần đây được chuyển tới các viện bảo tàng như Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng.

Mỹ Sơn vẫn có một viện bảo tàng tạm thời đã được thiết lập trong 2 ngôi đền với sự trợ giúp của người Đức và Ba Lan để trưng bày các mô hình các lăng mộ và hiện vật còn lại.

Một phần cụm tháp B, C và D tại Mỹ Sơn

Năm 2005 tỉnh Quảng Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà trưng bày, giới thiệu di tích Mỹ Sơn với diện tích 5.400 m² với nhà chính rộng 1.000 m² ngay lối dẫn vào di tích (khoảng 1 km) do Nhật Bản tài trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều lo ngại về tình trạng của các công trình kiến trúc, một số trong đó có khả năng sập đổ.

Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam đã chi khoảng 7 tỷ VNĐ (USD 440.000) cho dự án phục chế khẩn cấp Thánh địa Mỹ Sơn; một dự án của UNESCO được hỗ trợ bởi chính phủ Ý với số tiền là USD 800.000 và các cố gắng phục chế có nguồn vốn từ Nhật Bản cũng đang góp phần ngăn chặn tình trạng xuống cấp của chúng. Các công việc phục chế tại đây cũng được World Monuments Fund (WMF) góp vốn.

Di tích của một ngôi đền cổ

Bắt đầu từ năm 2004, chương trình hợp tác 3 bên giữa Chính phủ Việt Nam, Văn phòng UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương và chính phủ Ý đã chọn Quảng Nam để thực hiện dự án Bảo vệ Khu di sản Thế giới Mỹ Sơn.

Chương trình bao gồm việc áp dụng các tiêu chuẩn bảo tồn quốc tế tại các đền thờ thuộc nhóm G tại Mỹ Sơn. Đến năm 2011, nhóm tháp G tiếp tục hoàn thiện trùng tu, củng cố hệ thống thông tin diễn giải cho du khách. Nếu tính cả giai đoạn 1997 - 2003 tập trung khảo sát, thăm dò, phân tích… thì câu chuyện của tháp G “dài” ngót… 14 năm.

Đền đài trước sự tàn phá của thời gian

Các nhà khảo cổ và kiến trúc trong cũng như ngoài nước vẫn chưa có một kết luận cuối cùng về kỹ thuật cũng như vật liệu người Chàm xưa áp dụng khi xây dựng tháp và đền thờ. Dự án hợp tác quốc tế chỉ tìm ra được chất liệu tương đồng với loại mà người Chàm cổ sử dụng như chất vữa liên kết và sản xuất gạch phục chế. Loại nhựa cây cùng với dầu rái có thể tìm được tại rừng Mỹ Sơn, còn gạch Chàm được “đặt hàng” tại một lò gạch ở huyện Duy Xuyên theo yêu cầu kỹ thuật của các chuyên gia.

Gạch Chàm chính là trở ngại lớn nhất trong việc trùng tu Mỹ Sơn. Sau thời gian nghiên cứu, hiện đã có được viên gạch cổ với độ tương đồng khoảng 90% so với viên gạch cổ nhưng cũng đã là thành công lớn. Giá thành một viên gạch khoảng 70.000 đồng nhưng nếu tính tất cả chi phí và công sức nghiên cứu suốt thời gian qua, cộng với thủ tục gửi mẫu vật đi nước ngoài mỗi năm 3 lần, thì mỗi viên gạch lên đến khoảng 1 triệu đồng/viên.

Những viên gạch tạo nên nền tháp cổ

Ngoài những tháp và đền cổ, Mỹ Sơn còn có một số tượng đá các linh vật thờ phụng, tiêu biểu nhất là tượng Linga và Yoni theo Ấn Độ giáo Shiva. Linga và Yoni là những biểu tượng thờ phụng, tượng trưng cho bộ phận sinh dục của người nam và người nữ đã được sử dụng từ thời kỳ đầu của nền văn minh thung lũng sông Ấn.

Tại Mỹ Sơn, tôi đã phát hiện một tượng Linga bằng đá, nằm khiêm tốn trong một góc khuất mà du khách rất dễ bỏ qua. Tượng không có nhiều chi tiết cầu kỳ nhưng chỉ cần một vài phút chiêm ngưỡng người ta liên tưởng ngay khối trụ là bộ phận sinh dục của người nam và được đặt trên một khối 6 cạnh.

Linga

Theo Ấn Độ giáo, Linga và Yoni là sự kết hợp của âm-dương. Cũng từ sinh thực khí Linga và Yoni tạo ra sự sinh sôi, phát triển của con người và sự tái sinh của vũ trụ. Đa số mỗi bệ Yoni, trên đó được thể hiện một Linga, nhưng trong điêu khắc Chàm lại có trường hợp ở bệ được thể hiện trên đó nhiều Linga và đặc biệt hơn nữa là trên Yoni lại được thay thế Linga bằng hình người (hay thần), như bộ Yoni ở tháp chính Po Naga Nha Trang, có thể đây là hình tượng nữ thần Po Naga.

Yoni

Gần một ngày tại Mỹ Sơn giữa trời nắng trang trang quả là một thử thách đối với những người lớn tuổi như tôi. Thế nhưng, tất cả đã vượt qua để được một lần chứng kiến di tích của một nền văn minh Chiêm Quốc. Dấu tích đó ngày càng trở nên “điêu tàn” như nhà thơ Chế Lan Viên đã dùng từ ngữ này để làm tựa đề cho tập thơ.

Một ông già… ham vui!

Tập thơ “Điêu Tàn” xuất bản cách đây gần một thế kỷ. Mỹ Sơn được xây dựng từ thế kỷ thứ 4. Hiện nay chúng ta đang sống ở thế kỷ thứ 21. Nếu làm phép tính với đơn vị thế kỷ người ta mới thấy thời gian quả là vô biên!      

Tạm biệt Thánh địa Mỹ Sơn

***

Chú thích:

(1) Đọc “Người Chàm trong mắt tôi” tại:

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.         Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.         Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.         Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.         Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.         Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.         Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.         Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.         Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.         Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!














--> Read more..

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

Du xuân Xứ Quảng: Phố cổ Hội An

Tôi đã đến phố cổ Hội An năm 2000 trong chuyến xuyên Việt với đoàn sinh viên Mỹ (1). Trong chuyến đi đó, tôi đã có dịp chiêm ngưỡng Hội An duới ánh sáng ban ngày. Chuyến du xuân Xứ Quảng 15 năm sau, năm 2015, lại diễn ra vào ban đêm, qua ánh sáng lung linh từ các lồng đèn giăng đầy phố. Hội An dưới ánh đèn và phố cổ ban ngày là hai thế giới, dù cùng một địa điểm, nhưng lại mang nhiều sắc thái khác biệt…

Có thể nói, Hội An ban ngày mang đậm nét của một vùng đất với nhiều dấu tích thời xa xưa trên 3.000 năm như Bãi Ông thuộc thời tiền sử hay còn gọi là nền văn minh “Tiền Sa Huỳnh”, bên cạnh đó là những di tích còn lại đều trên dưới 2.000 năm của giai đoạn “Hậu Sa Huỳnh”.

Những đồ vật được thu thập từ các di tích khảo cổ là các công cụ sinh hoạt, lao động, sản xuất, chiến đấu, trang sức, tín ngưỡng... bằng các chất liệu gốm, đồng, sắt, đá, thuỷ tinh. Đặc biệt còn có cả những tiền đồng Trung Hoa hay hiện vật bằng thủy tinh có gốc từ Nam Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Đông….

Dân cư Sa Huỳnh cổ là người Chàm mà ngày nay được gọi bằng cái tên “Chămpa” (2).  Người Chàm đã từng có nền văn hoá rực rỡ với thời kỳ vàng son của một bến cảng quốc tế. Những cái tên “Chiêm Bất Lao” (Cù Lao Chàm), “Đại Chiêm Hải Khẩu” (Cửa Đại), với những tượng đá, giếng gạch và dấu vết nền tháp cổ. Đặc biệt trong các di chỉ khảo cổ học gốm sứ Chàm, Ả Rập, Trung Quốc; các đồ trang sức từ Trung Đông, Ấn Độ và nhiều tài liệu, thư tịch cổ Trung Quốc, Ả Rập, Ấn Độ, Ba Tư xác nhận vùng Cửa Đại xưa kia là hải cảng chính của Chiêm quốc. 

Bãi biển Cửa Đại
(Hình tác giả chụp năm 2000)

Tiếp nối thời kỳ Chiêm quốc, đến cuối thế kỷ 15, Hội An đã có dân cư Đại Việt tới sinh sống. Trong buổi đầu cùng với việc khai hoang, lập làng, người Việt còn sáng tạo ra một số ngành nghề phù hợp với điều kiện thiên nhiên và xã hội nơi đây. Từ cuối thế kỷ 16 - 17, có thêm nhiều người Hoa và người Nhật đến định cư, giúp thương nghiệp Hội An phát triển trong nhiều thế kỷ.

Đến giữa thế kỷ 19, nền kinh tế Hội An bước vào suy thoái do nhiều nguyên nhân trong đó có sự bồi cạn, sông chuyển dòng, chính sách kinh tế hạn chế của triều đình nhà Nguyễn. Cách Hội An chừng 30 km, người Pháp đã xây dựng thương cảng Đà Nẵng nên Hội An đã mất hết vai trò chủ lực của nền kinh tế Xứ Quảng. Thay vào đó, Hội An với những phố cổ lại nổi lên như một di tích lịch sử, thu hút khách du lịch trong cũng như ngoài nước (2).

Điều ấn tượng nhất đối với tôi trong chuyến thăm Hội An năm 2000 không phải là phố cổ mà là con sông Cổ Cò lững lờ nằm dọc theo đường bờ biển. Ngày xưa, đây chính là con đường huyết mạch nối liền sông Hàn của Đà Nẵng và sông Thu Bồn của Hội An. Sông Cổ Cò xưa kia có sự giao thương tấp nập với cảnh “trên bến dười thuyền” nhưng ngày nay trở thành một dòng sông thơ mộng mà du khách đến Hội An ít người biết đến!

Cách đây hơn 60 năm, sông Cổ Cò bị tàn phá, vùi lấp sau một cơn bão lớn, giao thông đường thủy giữa Đà Nẵng và Hội An trở nên bế tắc. Đó cũng là một trong những lý do khiến Hội An vốn đã từng là một thương cảng lớn dần lui vào dĩ vãng. Và đó cũng là lý do Hội An trở thành phố cổ với lớp rêu xanh của thời gian phủ lớp ngói nhà. 

Sông Cổ Cò, một nét đẹp của Hội An rất ít người biết đến
(Hình tác giả chụp năm 2000)

Chúng tôi, 6 người thuộc 3 thế hệ, rời Đà Nẵng vào lúc xế chiều để đến Hội An khám phá phố cổ về đêm. Đường bộ đi Hội An rất tốt, chỉ khoảng 30 km, nên chỉ chừng hơn nửa tiếng đã đến nơi. Chỉ có điều hơi phiền khi con rể lái xe lòng vòng tìm chỗ đậu vì phố cổ chỉ dành cho người đi bộ.

Biển cấm xe cộ đặt ngay đầu phố cổ (2015)

Về đêm, Hội An không có những âm thanh nhộn nhịp của ban ngày, phố cổ như chìm đắm trong bầu không khí thư thả của một ngày gần tàn. Trên đường đi dạo, hầu hết là du khách, cả trong lẫn ngoài nước. Đèn lồng xanh đỏ giăng mắc khắp nơi, đủ để thắp sáng những con đường và những cửa hàng.

Tận hưởng những giây phút thư giãn trên phố cổ (2015)

Người mua sắm không nhiều nhưng những nhà hàng, hàng ăn chỗ nào cũng có khách. Có lẽ việc mua sắm dành cho ban ngày còn ban đêm mọi người chỉ đi dạo để tận hưởng những giây phút thư thái, yên bình của khu phố cổ và cuối cùng họ vào các quán ăn.

Cửa hàng về đêm thưa thớt khách (2015)

Ăn uống là nhu cầu tất yếu của cuộc sống, không phân biệt ngày đêm. Chúng tôi ăn tối tại một nhà hàng mang tên “Faifo Xưa” trên đường Nguyễn Thái Học. Trước khi bàn về chuyện ăn uống xin có đôi dòng về cái tên Faifo mà người Pháp dùng trên bản đồ chính thức của chính quyền Đông Dương để chỉ Hội An

Xuất xứ của cái tên Faifo tồn tại nhiều giả thuyết. Người ta cho rằng cho rằng Faifo xuất phát từ tên “Hội An Phố”, một cái tên mà sử sách và địa chí Việt Nam và Trung Hoa đều nhắc tới. Theo một thuyết khác, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn được gọi là “Hoài Phố”, sau Hoài Phố biến thành “Phai Phố”, từ đó xuất hiện cái tên Faifo.

Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (gồm 3 thứ tiếng Việt, Bồ Đào Nha, La Tinh) của Alexandre de Rhodes in tại Roma năm 1651, chữ “Hoài Phố” được định nghĩa là một làng trong xứ Cochinchine (Đông Dương) mà người Nhật sinh sống, họ đặt tên là Faifo. Ngày nay, Hội An là điểm đến của nhiều du khách Nhật. Chắc hẳn họ muốn tìm lại nơi các thương nhân người Nhật đã bôn ba sang xứ Giao Chỉ.

Dấu ấn đậm nét nhất của người Nhật tại Hội An là Chùa Cầu được các thương nhân người Nhật góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ 17. Cũng vì thế Chùa Cầu còn được gọi là cầu Nhật Bản dù kiến trúc mang đậm sắc thái Việt Nam. Theo truyền thuyết, ngôi chùa được coi như là một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật “mamazu”, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận động đất.

Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là “Lai Viễn Kiều”, với ý nghĩa "Cầu đón khách phương xa".

Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng lại vào năm 1817. Ngôi chùa có lẽ cũng được dựng lại vào thời gian này. Chùa được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915 và 1986.

Chùa Cầu
(Hình tác giả chụp năm 2000)

Chùa Cầu dài khoảng 18 m, có mái che, vắt cong qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn.
Mái chùa lợp ngói âm dương, trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán “Lai Viễn Kiều”. Chùa và cầu đều bằng gỗ, sơn son và chạm trổ rất công phu. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ, (có người giải thích cây cầu xây từ năm Thân, hoàn tất năm Tuất). Một số khác lại cho rằng khỉ và chó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa.

Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa (gọi là chùa) thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt đẹp.

Bên trong Chùa Cầu (2015)

Chúng tôi dừng chân tại Faifo Xưa để ăn tối. Nhà hàng là một căn nhà hai tầng, kiến trúc theo kiểu kết hợp giữa tường gạch và cột gỗ. Lên hết cầu thang hẹp bằng gỗ là không gian rộng của một phòng ăn được trang trí với những tô, chén, đĩa cổ gắn trên tường. Chưa biết các món ăn như thế nào nhưng nhà hàng có một lối trang trí độc đáo và lạ mắt.

Không gian phòng ăn

Trang trí trên tường

Ngoài balcon nhìn xuống dưới đường là hai chiếc bàn nhỏ. Có một cặp vợ chồng (hay tình nhân) người nước ngoài đang ngồi bên nhau. Quả thật họ đã chọn một bàn lý tưởng để vừa thưởng thức bữa ăn tối, vừa ngắm nhìn phố cổ lung linh dưới ánh đèn lồng. Tôi nghĩ họ sẽ còn nhớ đến Hội An, không phải qua bữa ăn mà là những gì đang diễn ra trong khung cảnh tĩnh mịch và lãng mạn.   

Phố cổ nhìn từ balcon nhà hàng Faifo Xưa

Hội An có món “cao lầu”, đó là món tôi dùng tại Faifo Xưa. Xin nhắc lại, chữ “lầu” có dấu huyền chứ không phải “cao lâu” thường dùng để chỉ nhà hàng của người Tầu. Người ta giải thích sở dĩ có tên “cao lầu” vì thời xưa các thương nhân buôn bán ở Hội An thường ngồi trên lầu cao của quán (như balcon của nhà hàng Faifo Xưa) để vừa ăn vừa trông hàng.

Cách giải thích này, theo tôi, có phần gượng ép. Tuy nhiên, ngồi trên lầu cao ngắm cảnh đẹp và thưởng thức món ngon như cặp tình nhân ngồi trên balcon nhìn xuống đường tại Faifo Xưa ngày nay chắc chắn là rất lãng mạn.

Mới thoạt nhìn, cao lầu trông giống như mì quảng nhưng khác ở chỗ sợi mì có màu vàng. Trong khi mì quảng xuất hiện khắp Xứ Quảng thì cao lầu chỉ có ở Hội An. Nhiều người cho rằng cao lầu là của người Hoa, nhưng Hoa kiều ở đây lại không công nhận nó. Người Nhật thì cho rằng nó giống mỳ “Udon” của họ nhưng khi ăn lại hoàn toàn có hương vị khác vì cách chế biến.

Cũng như mì quảng, cốt lõi của món cao lầu là sợi mì. Đầu tiên, gạo thơm đem ngâm vào nước tro, mà phải là tro nấu củi lấy ở tận Cù lao Chàm, cách Hội An 16 km. Sau đó lọc kỹ, xay thành bột; nước xay gạo phải là nước ở giếng Bá Lễ của người Chàm đào cách đây cả ngàn năm, mới được nước ngọt, không bị phèn và mát lạnh.

Người ta thường ăn cao lầu với giá trụng nước sôi, thêm ít rau sống, được lấy ở làng rau truyền thống Trà Quế nổi tiếng ở Hội An. Giá trụng đổ ra tô, xếp mì lên trên, thêm vài lát thịt xíu rồi đổ tóp mỡ, một muỗng mỡ heo rán để sẵn bên lò nước. (Nghe qua thì thấy ngon nhưng những người có cholesterol cao nên dè chừng!)

Khi ăn cao lầu người ta cảm thấy sự dai dai, sừn sựt của sợi mì, mùi vị chua, cay, đắng, chát, ngọt của rau sống. Tất cả được hòa trộn với hương vị của mắm, bột thơm, nước tương và tóp mỡ. Hỗn hợp đó hòa tan trong miệng, thấm dần xuống bao tử. Cao lầu Hội An là thế đó.

Thật tình, đối với tôi, cao lầu dù ăn tại nhà hàng Faifo Xưa nhưng vẫn chỉ là món mì quảng mà tôi đã từng ăn tại nhiều nơi khác không phải là Hội An! Ấn tượng được ghi nhận chỉ là khung cảnh chứ không phải là món ăn.

Cao lầu, Hội An

Rời Faifo Xưa chúng tôi tiếp tục tản bộ dọc theo phố cổ và bất ngờ khám phá một sinh hoạt đặc thù của Hội An về đêm. Từ xa người ta đã có thể nghe tiếng hô bài chòi giữa khung cảnh tĩnh mịch của ánh đèn lồng.

Bài chòi được chính thức xuất hiện như một lễ hội văn hóa tại Hội An kể từ năm 1988, năm mở đầu “Đêm Phố Cổ”… Trước đó hàng trăm năm, phạm vi nghệ thuật dân gian của bài chòi trải dài khắp Xứ Quảng, từ Quảng Bình, Quảng Trị xuống đến Ninh Thuận, Bình Thuận.

Lễ hội này trước đây thường được tổ chức ở làng quê vào dịp tết Nguyên Đán. Người ta dựng 9 hoặc 11 chòi, chia thành 2 bên, mỗi bên 5 chòi, mỗi chòi cao độ 2-3 m, rộng đủ vài ba người ngồi và một chòi trung tâm (chòi mẹ) ở giữa dành cho các vị chức sắc địa phương. Cái tên Bài Chòi được xuất phát từ đây.

Bộ thẻ để đánh bài chòi là bộ bài tam cúc cải tiến, gồm 33 lá, với những tên chuyển thành nôm na như: Nhứt Nọc, Nhì Nghèo, Ông Ầm, Thằng Bí, Lá Liễu v.v.. vẽ trên giấy rồi được dán vào thẻ tre. Bộ bài chòi lại gồm có 3 “pho”: Văn, Vạn, Sách giống như bộ bài tổ tôm hay chắn ở miền Bắc. Để giúp vui cho cuộc chơi còn có một ban nhạc cổ gồm đờn cò, kèn, sanh, trống hòa tấu lên khi có chòi "tới".

Ở miền Nam có trò chơi lô tô thì miền Trung có bài chòi. Tuy nhiên, hình thức chơi bài có phần khác nhau, nhất là cách “xướng” những con bài được bốc ra từ “anh hiệu” (một dạng MC) qua những “câu thai” hoặc câu ca dao khiến người chơi hồi hộp trước khi con bài được “xướng”.

Chẳng hạn, “anh hiệu” bốc ra cây bài Ông Ầm nhưng anh không “xướng” ngay mà lại đọc một câu thơ như:

“Nửa đêm gà gáy le te
Muốn đi rón rén đụng nghe cái ầm”

Người chơi bài chòi hiểu ngay đó là con bài… Ông Ầm! Bài chòi ở Hội An ngày nay đã cải tiến hơn xưa. Tôi đã cẩn thận quay một video clip bài chòi, về nhà nghe đi nghe lại cả chục lần mới viết lại đoạn ca như sau nhưng vẫn chưa tin mình viết đúng. Người Xứ Quảng vốn có cách phát âm đặc biệt mà lại ca theo điệu bài chòi nên rất khó nhận biết chính xác từng chữ:    

“Con gì nó ra đây…
Nó lên rừng gặp cua trong đá
Nó xuống biển thấy cặp cá đang bơi
Và thương nhau duyên kiếp trọn đời
Ai mà phụ rẫy ông Trời ổng phạt cho
Đã thương nhau thì đừng có đắn đo
Sang hèn mặc kệ sao cho duyên vầy
Dây tơ hồng, em trồng anh bợ
Phải duyên phải nợ mình vẫn bám dây
Ơ ban hiền ơi là con… Tám Dây”

Ca bài chòi tại phố cổ

Hội An còn nhiều điều kỳ thú để khám phá. Phố cổ về đêm cũng là một đề tài mang nhiều màu sắc đặc thù. Chỉ tiếc một điều bài viết này đã hơi dài. Tác giả xin hẹn vào một dịp khác trong chuỗi du ký “Hồi ức một đời người”.

***

Chú thích:

(1) Đọc thêm về Hội An qua bài viết “Những cái tên bình dị về Núi & Đèo (4)” tại: http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/01/nhung-cai-ten-binh-di-ve-nui-eo-4.html

(2) Đọc thêm về người Chàm qua bài viết: “Người Chàm trong mắt tôi” tại: http://chinhhoiuc.blogspot.com/2014/08/nguoi-cham-trong-mat-toi.html

(3) Ngày 4/12/1999, Tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ghi tên Hội An vào danh mục các Di sản Văn hóa thế giới.

Biểu tượng Hội An

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.         Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.         Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.         Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.         Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.         Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.         Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.         Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.         Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.         Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!










--> Read more..

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Du xuân Xứ Quảng: Câu chuyện ẩm thực

Ai đó đã từng nói: “Đường ngắn nhất để đến trái tim của mọi người là con đường mang tên… ẩm thực”. Quả là chí lý. Ngày xưa các cụ cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”… Xem ra câu chuyện ẩm thực luôn luôn đồng hành cùng du ký mỗi khi khách phương xa đến thăm một vùng đất lạ.

Bàn về chuyện ăn uống ở Xứ Quảng người ta thường nhắc đến câu “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay ăn…”. Về chuyện ẩm thực ở Quảng Ngãi, có lẽ điểm nổi bật nhất là tỏi ở huyện đảo Lý Sơn. Tỏi ở đây chỉ nhỏ hơn đầu ngón tay, hình bầu dục, chứa nhiều tinh dầu, có vị thơm, cay nhưng đặc biệt không gây hôi miệng như những loại tỏi trồng ở nơi khác.

Quan trọng hơn cả, mỗi củ tỏi ở Lý Sơn chỉ có một tép nên người ta còn đặt tên là “tỏi cô đơn” hay “tỏi mồ côi”, những cái tên đầy thi vị để gọi một loại tỏi được trồng trên đảo. Tại các thành phố lớn như Sài Gòn và Hà Nội, “tỏi mồ côi” hay “tỏi cô đơn” của Lý Sơn được các bà nội trợ mua với giá trên dưới 100.000 đồng một ký. “Đắt như vàng” nhưng chưa chắc đã có nguồn gốc “chính hiệu” Lý Sơn, trừ khi bạn đến tận nơi và mua tận tay những tép tỏi của người dân huyện đảo.


Người Phương Tây có một câu nói dí dỏm với ý chê việc ăn tỏi khiến cho hơi thở bốc mùi khó chịu, “One garlic a day, keep your friends away”… Mỗi ngày một tép tỏi khiến cho bạn bè tránh xa, đó chỉ là nhại lại một câu có ý ca tụng việc ăn táo: “One apple a day, keep the doctors away”. Có lẽ Tây chưa ăn tỏi Lý Sơn nên mới chê tỏi hôi miệng? Thật ra thì chính các thầy thuốc cũng phải thừa nhận tỏi trị được rất nhiều bệnh.

Tỏi Lý Sơn


Đức Phổ là huyện đồng bằng, nằm về phía đông nam tỉnh Quảng Ngãi, nơi tiếp giáp với tỉnh Bình Định. Nơi đây có các nghề “phục vụ ẩm thực” như nghề làm bún, làm bánh tráng… đặc biệt là nghề nấu đường theo phương pháp thủ công với sản phẩm mang thương hiệu “Đường Đức Phổ”.

Một nét hấp dẫn khác của Quảng Ngãi là những món ăn không giống bất cứ ở vùng nào trên cả nước, đó là cá bống sông Trà, chim mía, kẹo gương, mạch nha, đường phổi và món “don”… tất cả rất đậm đà hương vị của một miền quê vốn dĩ rất nghèo.

Xin có đôi lời về món don. Hình như chỉ ở Xứ Quảng mới có con don vì chúng xuất hiện tại sông Trà và sông Vệ vào mùa khô. Don sống dật dờ, vùi mình trong cát nên việc cào don cực kỳ khổ sở và công phu. Lỡ hôm nào xui gặp nước lớn, người cào don có ngâm mình hàng giờ cũng không đủ cho cả nhà ăn chứ chưa nói đến chuyện mưu sinh bằng nghề cào don.

Cũng vì vậy, nếu có một lần đến Xứ Quảng vào mùa khô bạn hãy thử món don, trái lại vào dịp Tết người ta thay don bằng… con hến. Dù don và hến cùng họ hàng với nhau nhưng nếu trong tô không phải con don có màu  vàng và những tua màu hồng xung quanh thì món ăn chẳng thể nào đúng vị… món don.

Don phải ăn với bánh tráng, đổ nước don vào rồi cho con don đã chín vào theo, rắc thêm hành tây, hành lá, ớt xiêm và vài hột tiêu xay nhuyễn. Bẻ bánh tráng nướng vào, cộng với tép tỏi Lý Sơn và mùi cay thơm của ớt hiểm, thế là bạn có món don “cực kỳ ngon miệng” cho những ngày hè nắng nóng.

Món don Xứ Quảng


Có 5 món ngọt mà khách phương xa thường mua về làm quà hay thưởng thức ngay tại chỗ là bánh thuẫn, kẹo gương, mạch nha, đường phèn, đường phổi và hàng loạt các món mặn như cá bống sông Trà, don, gỏi cá cơm, mắm “nhum”, chim mía, mắm cái…

“Địa chí Quảng Ngãi” viết: “Tiểu thủ công nghiệp Quảng Ngãi có nghề làm đường mía, nghề nấu đường phèn, nghề làm đường phổi, nghề làm kẹo gương, nghề làm mật nha [mạch nha], hầu hết đều là đặc sản địa phương..” .

“Phủ biên tạp lục” bổ sung thêm: “…Ở xã Ái Tử thuộc huyện Hương Trà cũng biết làm đường phèn, ở Điện Bàn cũng biết làm đường phổi, nhưng không nổi tiếng bằng Quảng Ngãi...”.

Tôi thắc mắc, phải chăng câu “Quảng Ngãi hay ăn…” là một lối ám chỉ những đặc sản phục vụ ẩm thực của vùng đất này? Hơn nữa, câu nói người Quảng Ngãi “hay ăn” có phần gượng ép cho hợp vần với “Quảng Nam hay cãi…”. Lại nhớ đến cách phát âm đặc thù của Xứ Quảng qua câu “Eng không eng tét đèng đi ngủ” khiến người ta liên tưởng đến chuyện ăn uống tại vùng đất duyên hải miền Trung. 

Mía được chế biến thành các món ngọt


“Gỏi cá Nam Ô” gắn liền với tên làng biển Nam Ô. Cá để chế biến là cá mòi, cá tớp, cá cơm... nhưng ngon nhất là cá trích. Trước khi ướp, cá được ép lấy nước để làm món nước chấm. Rau ăn kèm với gỏi cá Nam Ô rất đa dạng và chỉ mọc trên đèo Hải Vân như cóc rừng, tim lan, lành ngạnh, lá trâm, lá dừng...

Cẩm Lệ thuộc phường Khuê Trung, quận Hải Châu, có món bánh khô mè nổi tiếng trong đó người đi "tiên phong" là bà Huỳnh Thị Điểu, thường gọi là bà Liễu. Bánh khô mè được làm từ bột gạo, bột nếp, đường kính, gừng và mè. Bột gạo pha với bột nếp được cho vào khuôn, hấp cách thủy, nướng khô, "tắm" đường, "tắm" mè... Ruột bánh xốp giòn, đường dẻo, mè chín thơm, thường được người dân dâng cúng ông bà tổ tiên trong những ngày giỗ tết.

Ngoài ra ở Đà Nẵng còn có nhiều món ăn ngon tuy không gắn liền với tên một địa danh cụ thể nhưng vẫn mang những nét đặc trưng riêng như món mì quảng Đà Nẵng, bánh xèo Đà Nẵng, bánh tráng cuốn thịt heo, bún thịt nướng, bún chả cá, bún mắm, mít trộn, ốc hút, bò né, nem lụi, thịt bê thui...

Xin nói riêng về món bê thui, đặc biệt là bê thui Cầu Mống ở Đà Nẵng. Thành phần quan trọng quyết định đến sự thành công của món bê thui Cầu Mống là nước chấm và rau sống. Nước chấm phải được pha từ loại mắm cái thượng hạng làm từ cá cơm, cá nục đánh bắt ven biển miền Trung. Mắm cái sau khi gạn ép xác, lọc lấy nước mới cho thêm tỏi ớt, gừng xay, mè rang, chanh… cho vừa miệng.

Rau sống để cuốn bánh tráng cùng lát bê thui cũng khá cầu kỳ. Ngoài 3 loại rau chính là giá sống (loại cọng dài và mảnh), chuối chát và khế chua, trong đĩa rau còn có nhiều loại rau thơm (húng, quế, ngò…) và cải chìa non. Bánh tráng để cuốn bê thui phải là bánh tráng nhỏ, mỏng và dai được sản xuất từ trong các lò bánh danh tiếng ở Điện Bàn. Ngoài ra, một vài miếng bánh tráng nướng giòn điểm xuyết vào bữa ăn vốn là thói quen từ bao đời nay của người Xứ Quảng.

Bê thui Cầu Mống


Chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình du xuân Xứ Quảng vào ngày mùng 4 Tết. Máy bay đáp xuống phi trường quốc tế Đà Nẵng khoảng 3 giờ chiều và từ sân bay, con gái đề nghị một bữa ăn “xế” vì thấy mọi người ai cũng có vẻ đói bụng.

Sáu người chúng tôi trực chỉ Madame Lân, một vila được sửa sang thành nhà hàng, bày biện theo phong cách của quán Ngon trên đường Pasteur ở Sài Gòn và cũng dùng bàn gỗ, ghế gỗ… Chúng tôi gọi các món thuần túy Việt Nam như canh chua cá bông lau, cá bống kho tộ, thịt kho tàu và một món… hơi lạ: rau mồng tơi xào tỏi!

Tôi chỉ biết món canh cua nấu với rau mồng tơi, rau đay và đây là lần đầu trong đời tôi được thử món rau mồng tơi xào tỏi (chắc là tỏi Lý Sơn!). Xem ra thì món rau xào này không hợp với khẩu vị của những người đã quen ăn rau muống xào tỏi như tôi. Các cụ ta vẫn nói, “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, nhờ du xuân Xứ Quảng tôi mới biết đến món… rau mồng tơi xào tỏi!  

Chez Madame Lân


Nhà hàng thứ 2 tại Đà Nẵng chúng tôi đến có tên Restaurant Đông Dương. Khi con gái đề nghị đến đây thì cháu ngoại Seoul nói ngay: “Con sợ ở đó hơi ồn!”. (Bích Hằng được tập đoàn Total đài thọ chi sinh hoạt và hai cháu Seoul và Hana cũng được tài trợ việc học hành tại trường Quốc tế Singapore, còn con rể Vũ Bảo lo việc kinh doanh ở Sài Gòn nhưng cứ đến cuối tuần lại “bay” ra Đà Nẵng với vợ con).

Restaurant Đông Dương lại cũng là một vila có nhiều phòng được sửa sang thành một nhà hàng, thức ăn tại đây không có gì đáng nói nhưng quả đúng như lời Seoul, không khí tại đây… “hơi ồn”.

Tiếng ồn xuất phát từ một nhóm thực khách họp mặt nhân dịp đầu năm. Hình như họ là những cựu học sinh của một trường nào đó nên chuyện trò, cuời nói rôm rả với âm lượng “trên mức bình thường”. Thỉnh thoảng lại có tiếng hô… “một, hai, ba…dzô!”, một điệp khúc khá phổ biến ngày nay tại xứ mình trước khi mọi người nâng ly.

Tôi đi dạo một vòng nhà hàng và phát hiện có những phòng trưng bày… đồ cổ. Đối với tôi, đó là điều “ấn tượng nhất” về Restaurant Đông Dương, không phải là món ăn nhà hàng phục vụ mà là một collection đồ cổ.

Trước mắt thực khách là những vật xưa như máy đánh chữ Olympia Carina 3 của Đức, radio bọc vải bố thuộc loại “một đèn” Philips từ Hà Lan, náy hát mang nhãn hiệu “La voix de son maître” với logo con chó đứng nghe nhạc của Pháp bên cạnh dàn tape recorder hiệu Akai xuất xứ từ xứ Phù Tang. 

“La voix de son maître’ bên cạnh dàn máy Akai


Dĩ nhiên là có cả một bộ sưu tập xe cổ với những kiểu xe xưa như Mobylette, Vespa, Lambretta, Simson… Hóa ra đến Restaurant Đông Dương lại được thưởng thức một “bữa tiệc đồ cổ thú vị” chứ không phải là một bữa ẩm thực theo đúng nghĩa của nó.

Nếu đánh giá nhà hàng theo kiểu cho điểm bằng sao thì Restaurant Đông Dương xứng đáng nhận 2 sao cho việc trang trí độc đáo, 1 sao cho thức ăn phục vụ và “không-sao-nào” cho bầu không khí nhà hàng!

Xe cổ


Sẽ là một thiếu sót lớn khi đến Xứ Quảng mà không thưởng thức một tô mì quảng, “đặc sản” của Quảng Nam – Đà Nẵng. Hồi trẻ khi còn đi học trên Đà Lạt tôi vẫn thường ăn mì quảng ở một quán gần xi-nê Ngọc Hiệp. Mì ở đây có sợi màu vàng nghệ, cũng đủ cả thịt heo, tôm, thịt gà và đặc biệt là mấy miếng bánh tráng được xếp trên cùng. Ngon tuyệt vời đối với một cậu học sinh mới lớn…

Ở Sài Gòn cũng có quán mì quảng tôi thường lui tới, quán này có vẻ bình dân, sập sệ… nằm gần bờ kè khu Đa Kao, quận nhất… Mì quảng ở đây là người chủ nói giọng Xứ Quảng, ăn khá ngon. Tô mì được chan một ít nước dùng đặc sệt, lại có cả lòng heo, tiết, trứng cút, vài cục thịt viên, thịt gà và cua biển. Ăn kèm có bắp chuối xắt nhỏ, rau thơm nhưng không có giá hay xà lách.

Đến Đà Nẵng lần này tôi quyết phải ăn một tô mì quảng ngay tại xứ sở của nó để còn so sánh với những mì quảng “lai” đã từng được ăn. Tôi gợi ý đi ăn điểm tâm mì quảng, đề nghị đó được các cháu vui vẻ đáp ứng dù hình như tụi nhỏ cũng không mặn mòi với món này cho lắm.   

Chúng tôi đến quán Bà Mua trên đường Trần Bình Trọng, tiệm Bà Mua còn một chi nhánh nữa ở đường Đống Đa. Seoul có máu “tiếu lâm” (giống ông ngoại) nên cứ gọi là quán “Bà Bán” chứ không phải là Bà Mua! Cũng có lý, quán bà mở ra là để “bán” cho khách chứ nào phải là để “mua”.

Cả nhà gọi những món điểm tâm khác, chỉ mình tôi nhất quyết phải ăn một tô mì quảng ngay tại Xứ Quảng, Đà Nẵng. Cứ tưởng mì quảng chính hiệu phải là sợi mì màu vàng như hồi xưa ăn trên Đà Lạt. Nhưng tôi đã lầm to.

Sợi mì của Bà Mua lại là màu trắng đục làm từ bột gạo, hình như có trộn ít bột mì, xay mịn rồi được tráng thành từng lớp mỏng. Sau đó, lớp bánh được sắt theo chiều ngang để thành những sợi mì khoảng 2 mm.

Người Quảng ca tụng: chỉ cần ăn sợi mì cũng cảm thấy độ dòn vừa phải, độ dai cũng có và cả độ béo cũng không thiếu! Bí quyết là những phụ gia đi kèm khi trộn bột và đó là “bí mật gia truyền” của người làm sợi mì!

Như vậy, phần đặc sắc là sợi mì còn những thứ khác như thịt heo nạc, thịt gà thái nhỏ, tôm, cua trong tô mì thì ở đâu cũng có. Người ta còn bỏ thêm đậu phụng rang khô và giã dập, hành lá thái nhỏ, rau thơm, ớt đỏ...

Thêm một điều cần lưu ý là mì quảng không bao giờ chan nước lõng bõng như phở. Có thể nói, nước của mì quảng tựa như nước sốt chứ không trong như nước phở. Bánh tráng nướng là điều không thể thiếu trong một tô mì quảng.

Cũng phải mở ngoặc nói thêm, nghệ thuật làm bánh tráng ở Xứ Quảng rất tinh vi và hầu hết các món ăn đều thấy có sự xuất hiện của bánh tráng nướng dòn hoặc bánh tráng cuốn.

Một “sao” cho ẩm thực Đà Nẵng là suốt các bữa ăn, thực khách không bị quấy rầy bởi những người bán vé số, đánh giầy hay ăn xin. Như vậy, những “quyết sách” của Đà Nẵng đã thành công trong khi Hà Nội hay Sài Gòn vẫn chưa thể nào đuổi kịp (1).   
 
Dĩ nhiên là người Đà Nẵng phải tự hào về món “ruột” của mình nên nghe nói thành phố cũng làm một tô mì để tạo… kỷ lục. Đó là tô mì khổng lồ có thể phục vụ 600 người ăn được chế biến từ 105 kg mì, 18 kg thịt ba chỉ, 25 kg tôm đất, 5 kg cua đồng…

Cũng nghe nói, cái tô để đựng mì được làm theo mẫu của làng Phú Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam), bên trong tráng men, bên ngoài khảm sành. Tô mì có đường kính 3,6 m, cao 1,5 m và phần đế dày 0,156 m. Ngoài ra, kèm theo tô mì “kỷ lục” còn có đĩa rau sống đường kính 4,1 m, cao 0,6 m được khảm sành kiểu thời nhà Nguyễn cộng thêm với đôi đũa dài 1,8 m bằng gỗ mun.

Trước đó, vào năm 2012, một tô mì quảng làm từ 10 con gà, 50 kg mì đựng trong chiếc bát rộng tới 0,9 m và dành cho 250 người ăn đã được Tổ chức Kỷ lục xác nhận là “tô mì quảng lớn nhất Việt Nam”.

Ngoài thành phần chính là mì và thịt gà, các đầu bếp còn dùng đến 10 kg rau sống, 5 búp chuối, 4 lít dầu phụng, 2 quả trứng đà điểu… Tất cả nguyên liệu đều được mua tại vườn nhà ở Quảng Nam. Đi kèm là hai chiếc đĩa, mỗi đĩa có đường kính 1 m để đựng rau sống, bánh tráng nướng và 4 đôi đũa tre dài 1,2 m.

Tô mì quảng lớn nhất VN năm 2012


Năm nay, Đồng Tháp có tô hủ tiếu lớn nhất có thể phục vụ cho 1000 người ăn với 100 kg thịt heo và 600 lít nước súp… Nhưng có lẽ Đồng Tháp không được hài lòng cho lắm vì tác phẩm “kỷ lục” của họ phải đổ bỏ vì bị hư, không ai ăn được miếng nào! 

Trước đó, tỉnh Sóc Trăng có chiếc bánh pía (2) lớn nhất Việt Nam với đường kính 1,3 m, dày 22 cm, trọng lượng 306 kg để chào mừng Festival đua ghe ngo của đồng bào Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Bánh pía Sóc Trăng


Tại Sài Gòn vào dịp Tết Vào Giáp Thân (2004), có cặp bánh tét khổng lồ tại Công viên Đầm Sen. Mỗi đòn dài 3,5 m, đường kính 0,8 m; được làm bằng 750 kg nếp ngỗng, 100 kg đậu xanh, 70 kg nhân thịt và khoảng 400 kg lá chuối và dây buộc.

Bánh được nấu từng chiếc trong một lò nấu tự chế với kích thước 1,6 m x 1,6 m x 4,7 m trong thời gian 36 tiếng, sử dụng khoảng 50 m3 củi, 50 m3 nước, sau khi nấu xong mỗi chiếc bánh cân nặng 2.000 kg.

Chiếc bánh chưng khổng lồ đã được ra mắt trong lễ hội Mẫu Tổ Âu Cơ tại xã Hùng Cường, Hưng Yên. Chiếc bánh có kích thước 2,5 m x 2,5 m x 80 cm và nặng khoảng 4,3 tấn được làm từ 3 tấn gạo nếp, 3 tạ đường, 3 tạ đỗ, 5 tạ lá dong và 1,5 tạ lạt buộc. Chiếc bánh chưng này cũng đã được Tổ chức kỷ lục Việt Nam công nhận là chiếc bánh chưng lớn nhất Việt Nam.

Cùng với chiếc bánh chưng khổng lồ, 1 chiếc bánh dày lớn, nặng khoảng 500 kg cũng chính thức được ra mắt  đông đảo thực khách gần xa, tạo thành cặp bánh chưng - bánh dày lớn nhất dâng lên cúng tổ tiên, các vua Hùng trong dịp lễ hội diễn ra trong các ngày từ 6 đến 8/4, tức từ 7 đến 9/3 Âm lịch.

Bánh chưng & Bánh giầy


Nước mình hình như đang mắc căn bệnh “thành tích” nên địa phương nào cũng cố nghĩ ra một kỷ lục để phá. Chỉ nói riêng về ẩm thực, danh sách các món ăn kỷ lục càng ngày càng dài ra theo thời gian, chỉ tiếc một điều nếp sống văn hóa lại càng ngày càng “xuống cấp”, càng tệ hại.

Gần đây người ta thường nhắc đến các lễ hội. Theo Wikipedia, "Lễ" là những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.

Xem ra ngày nay thì phần” lễ” chỉ là thứ yếu còn phần “hội” mới được các địa phương chú ý vì mang tính cách nửa xã hội, nửa kinh tế với số người từ các địa phương khác đổ về tham gia. Cả nước hiện có đến gần 8.000 lễ hội và các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương và Phú Thọ.

Có những lễ hội bị “biến tướng”, bị “trần tục hoá”, được tổ chức một cách tràn lan, “vô tổ chức”. Có những lễ hội như “đâm trâu”, “chém lợn” một cách dã man. Có những lễ hội lại đề cao bạo lực trong việc cướp ấn, cướp bùa, cướp hoa tre… Và có lẽ không ít người bất bình với lời giải thích là “cướp có văn hóa” của một quan chức địa phương.

Trên trang blog của nhạc sĩ Tuấn Khanh tôi bắt gặp một đoạn:

“Từ tô hủ tíu lớn nhất, cái bánh chưng lớn nhất… cho đến tháp truyền hình cao nhất, tượng đài lớn nhất… Người Việt đang bước vào thời kỳ chạy đua niềm vui với cái “nhất”. Cuộc đời trần tục hầm hập phả hơi nóng của cái “nhất” từ miếng ăn đến tận linh hồn tín ngưỡng, khiến mọi thứ phải là “nhất”: người ta chen nhau giật lá bùa, giật cái ấn, cướp cái phết… đến vật vã để mình được là “nhất”.

Đó là một điều đáng báo động đối với những người yêu đất nước Việt Nam. Nếu có tâm huyết, những quan chức phụ trách văn hóa phải làm một cái gì đó để cứu vãn lối sống của cả một đất nước vẫn thường tự hào là có hơn bốn nghìn năm văn hiến. 

Thần thánh nào phù hộ cho những đồng tiền vấy máu lợn?


***

Chú thích:

(1) Đọc thêm bài viết “Du xuân Xứ Quảng: Thành phố Đà Nẵng”

(2) Bánh pía: Bánh pía là một trong những đặc sản của Sóc Trăng, do người Hoa di cư vào miền Nam sáng tạo ra. Bánh pía được làm bằng bột mì, sầu riêng, lòng đỏ trứng. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da.

Vì lý do thương mại, người sản xuất thường dùng phẩm đỏ in tên hoặc nhãn hiệu của nơi làm bánh trực tiếp lên mặt bánh. Ngoài ra, thành phần nhân bánh, nguồn gốc xuất xứ cũng thường được in trực tiếp lên bánh.

Bánh pía thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu kiểu Tô Châu (loại bột bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn mỡ). Bánh do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Các lò bánh pía tập trung nhiều ở xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú.

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.         Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.         Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.         Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.         Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.         Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.         Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.         Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.         Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.         Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

--> Read more..

Popular posts