Ai đó đã từng nói:
“Đường ngắn nhất để đến trái tim của mọi người là con đường mang tên… ẩm thực”.
Quả là chí lý. Ngày xưa các cụ cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”… Xem ra câu
chuyện ẩm thực luôn luôn đồng hành cùng du ký mỗi khi khách phương xa đến thăm
một vùng đất lạ.
Bàn
về chuyện ăn uống ở Xứ Quảng người ta thường nhắc đến câu “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay ăn…”. Về chuyện ẩm thực ở Quảng
Ngãi, có lẽ điểm nổi bật nhất là tỏi ở huyện đảo Lý Sơn. Tỏi ở đây chỉ nhỏ hơn
đầu ngón tay, hình bầu dục, chứa nhiều tinh dầu, có vị thơm, cay nhưng đặc biệt
không gây hôi miệng như những loại tỏi trồng ở nơi khác.
Quan
trọng hơn cả, mỗi củ tỏi ở Lý Sơn chỉ có một tép nên người ta còn đặt tên là “tỏi
cô đơn” hay “tỏi mồ côi”, những cái tên đầy thi vị để gọi một loại tỏi được trồng
trên đảo. Tại các thành phố lớn như Sài Gòn và Hà Nội, “tỏi mồ côi” hay “tỏi cô
đơn” của Lý Sơn được các bà nội trợ mua với giá trên dưới 100.000 đồng một ký. “Đắt
như vàng” nhưng chưa chắc đã có nguồn gốc “chính hiệu” Lý Sơn, trừ khi bạn đến
tận nơi và mua tận tay những tép tỏi của người dân huyện đảo.
Người
Phương Tây có một câu nói dí dỏm với ý chê việc ăn tỏi khiến cho hơi thở bốc
mùi khó chịu, “One garlic a day, keep
your friends away”… Mỗi ngày một tép tỏi khiến cho bạn bè tránh xa, đó chỉ
là nhại lại một câu có ý ca tụng việc ăn táo: “One apple a day, keep the doctors away”. Có lẽ Tây chưa ăn tỏi Lý
Sơn nên mới chê tỏi hôi miệng? Thật ra thì chính các thầy thuốc cũng phải thừa
nhận tỏi trị được rất nhiều bệnh.
Tỏi Lý Sơn
Đức
Phổ là huyện đồng bằng, nằm về phía đông nam tỉnh Quảng Ngãi, nơi tiếp giáp với
tỉnh Bình Định. Nơi đây có các nghề “phục vụ ẩm thực” như nghề làm bún, làm
bánh tráng… đặc biệt là nghề nấu đường theo phương pháp thủ công với sản phẩm
mang thương hiệu “Đường Đức Phổ”.
Một
nét hấp dẫn khác của Quảng Ngãi là những món ăn không giống bất cứ ở vùng nào
trên cả nước, đó là cá bống sông Trà, chim mía, kẹo gương, mạch nha, đường phổi
và món “don”… tất cả rất đậm đà hương vị của một miền quê vốn dĩ rất nghèo.
Xin
có đôi lời về món don. Hình như chỉ ở Xứ Quảng mới có con don vì chúng xuất hiện
tại sông Trà và sông Vệ vào mùa khô. Don sống dật dờ, vùi mình trong cát nên việc
cào don cực kỳ khổ sở và công phu. Lỡ hôm nào xui gặp nước lớn, người cào don
có ngâm mình hàng giờ cũng không đủ cho cả nhà ăn chứ chưa nói đến chuyện mưu
sinh bằng nghề cào don.
Cũng
vì vậy, nếu có một lần đến Xứ Quảng vào mùa khô bạn hãy thử món don, trái lại
vào dịp Tết người ta thay don bằng… con hến. Dù don và hến cùng họ hàng với
nhau nhưng nếu trong tô không phải con don có màu vàng và những tua màu hồng xung quanh thì món
ăn chẳng thể nào đúng vị… món don.
Don
phải ăn với bánh tráng, đổ nước don vào rồi cho con don đã chín vào theo, rắc
thêm hành tây, hành lá, ớt xiêm và vài hột tiêu xay nhuyễn. Bẻ bánh tráng nướng
vào, cộng với tép tỏi Lý Sơn và mùi cay thơm của ớt hiểm, thế là bạn có món don
“cực kỳ ngon miệng” cho những ngày hè nắng nóng.
Món don Xứ Quảng
Có
5 món ngọt mà khách phương xa thường mua về làm quà hay thưởng thức ngay tại chỗ
là bánh thuẫn, kẹo gương, mạch nha, đường phèn, đường phổi và hàng loạt các món
mặn như cá bống sông Trà, don, gỏi cá cơm, mắm “nhum”, chim mía, mắm cái…
“Địa
chí Quảng Ngãi” viết: “Tiểu thủ công nghiệp
Quảng Ngãi có nghề làm đường mía, nghề nấu đường phèn, nghề làm đường phổi, nghề
làm kẹo gương, nghề làm mật nha [mạch nha], hầu hết đều là đặc sản địa phương..” .
“Phủ
biên tạp lục” bổ sung thêm: “…Ở xã Ái Tử
thuộc huyện Hương Trà cũng biết làm đường phèn, ở Điện Bàn cũng biết làm đường
phổi, nhưng không nổi tiếng bằng Quảng Ngãi...”.
Tôi
thắc mắc, phải chăng câu “Quảng Ngãi hay
ăn…” là một lối ám chỉ những đặc sản phục vụ ẩm thực của vùng đất này? Hơn
nữa, câu nói người Quảng Ngãi “hay ăn”
có phần gượng ép cho hợp vần với “Quảng
Nam hay cãi…”. Lại nhớ đến cách phát âm đặc thù của Xứ Quảng qua câu “Eng không eng tét đèng đi ngủ” khiến
người ta liên tưởng đến chuyện ăn uống tại vùng đất duyên hải miền Trung.
Mía được chế biến thành các món ngọt
“Gỏi
cá Nam Ô” gắn liền với tên làng biển Nam Ô. Cá để chế biến là cá mòi, cá tớp,
cá cơm... nhưng ngon nhất là cá trích. Trước khi ướp, cá được ép lấy nước để
làm món nước chấm. Rau ăn kèm với gỏi cá Nam Ô rất đa dạng và chỉ mọc trên đèo
Hải Vân như cóc rừng, tim lan, lành ngạnh, lá trâm, lá dừng...
Cẩm
Lệ thuộc phường Khuê Trung, quận Hải Châu, có món bánh khô mè nổi tiếng trong
đó người đi "tiên phong" là bà Huỳnh Thị Điểu, thường gọi là bà Liễu.
Bánh khô mè được làm từ bột gạo, bột nếp, đường kính, gừng và mè. Bột gạo pha với
bột nếp được cho vào khuôn, hấp cách thủy, nướng khô, "tắm" đường,
"tắm" mè... Ruột bánh xốp giòn, đường dẻo, mè chín thơm, thường được
người dân dâng cúng ông bà tổ tiên trong những ngày giỗ tết.
Ngoài
ra ở Đà Nẵng còn có nhiều món ăn ngon tuy không gắn liền với tên một địa danh cụ
thể nhưng vẫn mang những nét đặc trưng riêng như món mì quảng Đà Nẵng, bánh xèo
Đà Nẵng, bánh tráng cuốn thịt heo, bún thịt nướng, bún chả cá, bún mắm, mít trộn,
ốc hút, bò né, nem lụi, thịt bê thui...
Xin
nói riêng về món bê thui, đặc biệt là bê thui Cầu Mống ở Đà Nẵng. Thành phần
quan trọng quyết định đến sự thành công của món bê thui Cầu Mống là nước chấm
và rau sống. Nước chấm phải được pha từ loại mắm cái thượng hạng làm từ cá cơm,
cá nục đánh bắt ven biển miền Trung. Mắm cái sau khi gạn ép xác, lọc lấy nước mới
cho thêm tỏi ớt, gừng xay, mè rang, chanh… cho vừa miệng.
Rau sống để cuốn bánh tráng cùng lát bê thui
cũng khá cầu kỳ. Ngoài 3 loại rau chính là giá sống (loại cọng dài và mảnh),
chuối chát và khế chua, trong đĩa rau còn có nhiều loại rau thơm (húng, quế,
ngò…) và cải chìa non. Bánh tráng để cuốn bê thui phải là bánh tráng nhỏ, mỏng
và dai được sản xuất từ trong các lò bánh danh tiếng ở Điện Bàn. Ngoài ra, một
vài miếng bánh tráng nướng giòn điểm xuyết vào bữa ăn vốn là thói quen từ bao đời
nay của người Xứ Quảng.
Bê thui Cầu Mống
Chúng
tôi bắt đầu cuộc hành trình du xuân Xứ Quảng vào ngày mùng 4 Tết. Máy bay đáp
xuống phi trường quốc tế Đà Nẵng khoảng 3 giờ chiều và từ sân bay, con gái đề
nghị một bữa ăn “xế” vì thấy mọi người ai cũng có vẻ đói bụng.
Sáu
người chúng tôi trực chỉ Madame Lân,
một vila được sửa sang thành nhà hàng, bày biện theo phong cách của quán Ngon
trên đường Pasteur ở Sài Gòn và cũng dùng bàn gỗ, ghế gỗ… Chúng tôi gọi các món
thuần túy Việt Nam như canh chua cá bông lau, cá bống kho tộ, thịt kho tàu và một
món… hơi lạ: rau mồng tơi xào tỏi!
Tôi
chỉ biết món canh cua nấu với rau mồng tơi, rau đay và đây là lần đầu trong đời
tôi được thử món rau mồng tơi xào tỏi (chắc là tỏi Lý Sơn!). Xem ra thì món rau
xào này không hợp với khẩu vị của những người đã quen ăn rau muống xào tỏi như
tôi. Các cụ ta vẫn nói, “đi một ngày
đàng, học một sàng khôn”, nhờ du xuân Xứ Quảng tôi mới biết đến món… rau mồng
tơi xào tỏi!
Chez Madame Lân
Nhà
hàng thứ 2 tại Đà Nẵng chúng tôi đến có tên Restaurant
Đông Dương. Khi con gái đề nghị đến đây thì cháu ngoại Seoul nói ngay: “Con sợ ở đó hơi ồn!”. (Bích Hằng được tập
đoàn Total đài thọ chi sinh hoạt và hai cháu Seoul và Hana cũng được tài trợ việc
học hành tại trường Quốc tế Singapore, còn con rể Vũ Bảo lo việc kinh doanh ở
Sài Gòn nhưng cứ đến cuối tuần lại “bay” ra Đà Nẵng với vợ con).
Restaurant Đông Dương
lại cũng
là một vila có nhiều phòng được sửa sang thành một nhà hàng, thức ăn tại đây
không có gì đáng nói nhưng quả đúng như lời Seoul, không khí tại đây… “hơi ồn”.
Tiếng
ồn xuất phát từ một nhóm thực khách họp mặt nhân dịp đầu năm. Hình như họ là những
cựu học sinh của một trường nào đó nên chuyện trò, cuời nói rôm rả với âm lượng
“trên mức bình thường”. Thỉnh thoảng lại có tiếng hô… “một, hai, ba…dzô!”, một điệp khúc khá phổ biến ngày nay tại xứ
mình trước khi mọi người nâng ly.
Tôi
đi dạo một vòng nhà hàng và phát hiện có những phòng trưng bày… đồ cổ. Đối với
tôi, đó là điều “ấn tượng nhất” về Restaurant
Đông Dương, không phải là món ăn nhà hàng phục vụ mà là một collection đồ cổ.
Trước
mắt thực khách là những vật xưa như máy đánh chữ Olympia Carina
3 của Đức, radio bọc vải bố thuộc loại “một đèn” Philips từ Hà Lan, náy hát
mang nhãn hiệu “La voix de son maître” với logo con chó đứng nghe nhạc của Pháp
bên cạnh dàn tape recorder hiệu Akai xuất xứ từ xứ Phù Tang.
“La voix de son maître’ bên cạnh dàn máy Akai
Dĩ
nhiên là có cả một bộ sưu tập xe cổ với những kiểu xe xưa như Mobylette, Vespa,
Lambretta, Simson… Hóa ra đến Restaurant
Đông Dương lại được thưởng thức một “bữa tiệc đồ cổ thú vị” chứ không phải
là một bữa ẩm thực theo đúng nghĩa của nó.
Nếu
đánh giá nhà hàng theo kiểu cho điểm bằng sao thì Restaurant Đông Dương xứng đáng nhận 2 sao cho việc trang trí độc
đáo, 1 sao cho thức ăn phục vụ và “không-sao-nào” cho bầu không khí nhà hàng!
Xe cổ
Sẽ
là một thiếu sót lớn khi đến Xứ Quảng mà không thưởng thức một tô mì quảng, “đặc
sản” của Quảng Nam – Đà Nẵng. Hồi trẻ khi còn đi học trên Đà Lạt tôi vẫn thường
ăn mì quảng ở một quán gần xi-nê Ngọc Hiệp. Mì ở đây có sợi màu vàng nghệ, cũng
đủ cả thịt heo, tôm, thịt gà và đặc biệt là mấy miếng bánh tráng được xếp trên
cùng. Ngon tuyệt vời đối với một cậu học sinh mới lớn…
Ở
Sài Gòn cũng có quán mì quảng tôi thường lui tới, quán này có vẻ bình dân, sập
sệ… nằm gần bờ kè khu Đa Kao, quận nhất… Mì quảng ở đây là người chủ nói giọng
Xứ Quảng, ăn khá ngon. Tô mì được chan một ít nước dùng đặc sệt, lại có cả lòng
heo, tiết, trứng cút, vài cục thịt viên, thịt gà và cua biển. Ăn kèm có bắp chuối
xắt nhỏ, rau thơm nhưng không có giá hay xà lách.
Đến
Đà Nẵng lần này tôi quyết phải ăn một tô mì quảng ngay tại xứ sở của nó để còn
so sánh với những mì quảng “lai” đã từng được ăn. Tôi gợi ý đi ăn điểm tâm mì
quảng, đề nghị đó được các cháu vui vẻ đáp ứng dù hình như tụi nhỏ cũng không mặn
mòi với món này cho lắm.
Chúng
tôi đến quán Bà Mua trên đường Trần Bình Trọng, tiệm Bà Mua còn một chi nhánh nữa
ở đường Đống Đa. Seoul có máu “tiếu lâm” (giống ông ngoại) nên cứ gọi là quán “Bà
Bán” chứ không phải là Bà Mua! Cũng có lý, quán bà mở ra là để “bán” cho khách
chứ nào phải là để “mua”.
Cả
nhà gọi những món điểm tâm khác, chỉ mình tôi nhất quyết phải ăn một tô mì quảng
ngay tại Xứ Quảng, Đà Nẵng. Cứ tưởng mì quảng chính hiệu phải là sợi mì màu
vàng như hồi xưa ăn trên Đà Lạt. Nhưng tôi đã lầm to.
Sợi
mì của Bà Mua lại là màu trắng đục làm từ bột gạo, hình như có trộn ít bột mì,
xay mịn rồi được tráng thành từng lớp mỏng. Sau đó, lớp bánh được sắt theo chiều
ngang để thành những sợi mì khoảng 2 mm.
Người
Quảng ca tụng: chỉ cần ăn sợi mì cũng cảm thấy độ dòn vừa phải, độ dai cũng có
và cả độ béo cũng không thiếu! Bí quyết là những phụ gia đi kèm khi trộn bột và
đó là “bí mật gia truyền” của người làm sợi mì!
Như
vậy, phần đặc sắc là sợi mì còn những thứ khác như thịt heo nạc, thịt gà thái
nhỏ, tôm, cua trong tô mì thì ở đâu cũng có. Người ta còn bỏ thêm đậu phụng
rang khô và giã dập, hành lá thái nhỏ, rau thơm, ớt đỏ...
Thêm
một điều cần lưu ý là mì quảng không bao giờ chan nước lõng bõng như phở. Có thể
nói, nước của mì quảng tựa như nước sốt chứ không trong như nước phở. Bánh
tráng nướng là điều không thể thiếu trong một tô mì quảng.
Cũng
phải mở ngoặc nói thêm, nghệ thuật làm bánh tráng ở Xứ Quảng rất tinh vi và hầu
hết các món ăn đều thấy có sự xuất hiện của bánh tráng nướng dòn hoặc bánh
tráng cuốn.
Một
“sao” cho ẩm thực Đà Nẵng là suốt các bữa ăn, thực khách không bị quấy rầy bởi
những người bán vé số, đánh giầy hay ăn xin. Như vậy, những “quyết sách” của Đà
Nẵng đã thành công trong khi Hà Nội hay Sài Gòn vẫn chưa thể nào đuổi kịp (1).
Dĩ
nhiên là người Đà Nẵng phải tự hào về món “ruột” của mình nên nghe nói thành phố
cũng làm một tô mì để tạo… kỷ lục. Đó là tô mì khổng lồ có thể phục vụ 600 người
ăn được chế biến từ 105 kg mì, 18 kg thịt ba chỉ, 25 kg tôm đất, 5 kg cua đồng…
Cũng
nghe nói, cái tô để đựng mì được làm theo mẫu của làng Phú Chiêm (Điện Bàn, Quảng
Nam), bên trong tráng men, bên ngoài khảm sành. Tô mì có đường kính 3,6 m, cao
1,5 m và phần đế dày 0,156 m. Ngoài ra, kèm theo tô mì “kỷ lục” còn có đĩa rau sống
đường kính 4,1 m, cao 0,6 m được khảm sành kiểu thời nhà Nguyễn cộng thêm với đôi
đũa dài 1,8 m bằng gỗ mun.
Trước
đó, vào năm 2012, một tô mì quảng làm từ 10 con gà, 50 kg mì đựng trong chiếc
bát rộng tới 0,9 m và dành cho 250 người ăn đã được Tổ chức Kỷ lục xác nhận là “tô
mì quảng lớn nhất Việt Nam”.
Ngoài
thành phần chính là mì và thịt gà, các đầu bếp còn dùng đến 10 kg rau sống, 5
búp chuối, 4 lít dầu phụng, 2 quả trứng đà điểu… Tất cả nguyên liệu đều được
mua tại vườn nhà ở Quảng Nam. Đi kèm là hai chiếc đĩa, mỗi đĩa có đường kính 1 m
để đựng rau sống, bánh tráng nướng và 4 đôi đũa tre dài 1,2 m.
Tô mì quảng lớn nhất VN năm 2012
Năm
nay, Đồng Tháp có tô hủ tiếu lớn nhất có thể phục vụ cho 1000 người ăn với 100 kg
thịt heo và 600 lít nước súp… Nhưng có lẽ Đồng Tháp không được hài lòng cho lắm
vì tác phẩm “kỷ lục” của họ phải đổ bỏ vì bị hư, không ai ăn được miếng
nào!
Trước
đó, tỉnh Sóc Trăng có chiếc bánh pía (2) lớn nhất Việt Nam với đường kính 1,3 m,
dày 22 cm, trọng lượng 306 kg để chào mừng Festival đua ghe ngo của đồng bào
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Bánh pía Sóc Trăng
Tại
Sài Gòn vào dịp Tết Vào Giáp Thân (2004), có cặp bánh tét khổng lồ tại Công
viên Đầm Sen. Mỗi đòn dài 3,5 m, đường kính 0,8 m; được làm bằng 750 kg nếp ngỗng,
100 kg đậu xanh, 70 kg nhân thịt và khoảng 400 kg lá chuối và dây buộc.
Bánh
được nấu từng chiếc trong một lò nấu tự chế với kích thước 1,6 m x 1,6 m x 4,7 m
trong thời gian 36 tiếng, sử dụng khoảng 50 m3 củi, 50 m3 nước, sau khi nấu
xong mỗi chiếc bánh cân nặng 2.000 kg.
Chiếc
bánh chưng khổng lồ đã được ra mắt trong lễ hội Mẫu Tổ Âu Cơ tại xã Hùng Cường,
Hưng Yên. Chiếc bánh có kích thước 2,5 m x 2,5 m x 80 cm và nặng khoảng 4,3 tấn
được làm từ 3 tấn gạo nếp, 3 tạ đường, 3 tạ đỗ, 5 tạ lá dong và 1,5 tạ lạt buộc.
Chiếc bánh chưng này cũng đã được Tổ chức kỷ lục Việt Nam công nhận là chiếc
bánh chưng lớn nhất Việt Nam.
Cùng
với chiếc bánh chưng khổng lồ, 1 chiếc bánh dày lớn, nặng khoảng 500 kg cũng
chính thức được ra mắt đông đảo thực
khách gần xa, tạo thành cặp bánh chưng - bánh dày lớn nhất dâng lên cúng tổ
tiên, các vua Hùng trong dịp lễ hội diễn ra trong các ngày từ 6 đến 8/4, tức từ
7 đến 9/3 Âm lịch.
Bánh chưng & Bánh giầy
Nước
mình hình như đang mắc căn bệnh “thành tích” nên địa phương nào cũng cố nghĩ ra
một kỷ lục để phá. Chỉ nói riêng về ẩm thực, danh sách các món ăn kỷ lục càng
ngày càng dài ra theo thời gian, chỉ tiếc một điều nếp sống văn hóa lại càng
ngày càng “xuống cấp”, càng tệ hại.
Gần
đây người ta thường nhắc đến các lễ hội. Theo Wikipedia, "Lễ" là những
hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản
ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa
có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật
của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Xem
ra ngày nay thì phần” lễ” chỉ là thứ yếu còn phần “hội” mới được các địa phương
chú ý vì mang tính cách nửa xã hội, nửa kinh tế với số người từ các địa phương
khác đổ về tham gia. Cả nước hiện có đến gần 8.000 lễ hội và các địa phương có
nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương và Phú Thọ.
Có
những lễ hội bị “biến tướng”, bị “trần tục hoá”, được tổ chức một cách tràn lan,
“vô tổ chức”. Có những lễ hội như “đâm trâu”, “chém lợn” một cách dã man. Có những
lễ hội lại đề cao bạo lực trong việc cướp ấn, cướp bùa, cướp hoa tre… Và có lẽ
không ít người bất bình với lời giải thích là “cướp có văn hóa” của một quan chức
địa phương.
Trên
trang blog của nhạc sĩ Tuấn Khanh tôi bắt gặp một đoạn:
“Từ tô hủ tíu lớn nhất,
cái bánh chưng lớn nhất… cho đến tháp truyền hình cao nhất, tượng đài lớn nhất…
Người Việt đang bước vào thời kỳ chạy đua niềm vui với cái “nhất”. Cuộc đời trần
tục hầm hập phả hơi nóng của cái “nhất” từ miếng ăn đến tận linh hồn tín ngưỡng,
khiến mọi thứ phải là “nhất”: người ta chen nhau giật lá bùa, giật cái ấn, cướp
cái phết… đến vật vã để mình được là “nhất”.
Đó
là một điều đáng báo động đối với những người yêu đất nước Việt Nam. Nếu có tâm
huyết, những quan chức phụ trách văn hóa phải làm một cái gì đó để cứu vãn lối
sống của cả một đất nước vẫn thường tự hào là có hơn bốn nghìn năm văn hiến.
Thần thánh nào phù hộ cho những đồng tiền vấy máu lợn?
***
Chú
thích:
(1)
Đọc thêm bài viết “Du xuân Xứ Quảng: Thành phố Đà Nẵng”
(2)
Bánh pía: Bánh pía là một trong những đặc sản của Sóc Trăng, do người Hoa di cư
vào miền Nam sáng tạo ra. Bánh pía được làm bằng bột mì, sầu riêng, lòng đỏ trứng.
Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da.
Vì
lý do thương mại, người sản xuất thường dùng phẩm đỏ in tên hoặc nhãn hiệu của
nơi làm bánh trực tiếp lên mặt bánh. Ngoài ra, thành phần nhân bánh, nguồn gốc
xuất xứ cũng thường được in trực tiếp lên bánh.
Bánh
pía thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu kiểu Tô Châu (loại bột bánh có nhiều
lớp mỏng và nhân bánh có trộn mỡ). Bánh do một số người Minh Hương di cư sang
Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang
tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Các lò bánh pía tập
trung nhiều ở xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú.
***
(Trích
Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời
xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà
Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và
Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng
viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng
Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện
tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề
báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những
chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác
giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên
2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét