"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn;
Tiếng ta còn, nước ta còn...''
Học
giả Phạm Quỳnh đã không tiếc lời đề cao Truyện Kiều như một áng văn tuyệt tác của
nền văn học Việt Nam nói riêng và, ở một mức độ bao quát hơn, là sự gắn bó giữa
kiệt tác của Nguyễn Du và ngôn ngữ Việt.
Ngày
xưa, chuẩn mực cho thanh niên rất đơn giản: đánh tổ tôm, uống trà và…đọc Truyện
Kiều. Ba thú vui đó đã làm nên một người đàn ông mẫu mực của thời đại phong kiến:
“Làm trai biết đánh tổ
tôm
Uống chè mạn hảo, xem
Nôm Thúy Kiều”
Tuy
nhiên, cũng có ý kiến “phản biện” khi các cụ lại liệt Truyện Kiều là “dâm thư”
trong bối cảnh một nền văn hóa lễ giáo của Khổng, Mạnh. Thế cho nên mới có lời
răn nghiêm khắc:
“Đàn ông chớ kể Phan
Trần
Đàn bà chớ kể Thúy
Vân, Thúy Kiều...”
Cho
dù có chống đối hay ca tụng, hiển nhiên Truyện Kiều đã giữ một vị trí quan trọng
trong lòng người Việt, từ lớp bình dân cho đến trí thức. Chẳng thế mà chúng ta
có những biến thể từ Truyện Kiều như “bói” Kiều, “lẩy” Kiều bên cạnh các hoạt động
văn hóa như “vịnh” Kiều, “tranh” Kiều.
Tranh chị em Thúy Kiều gặp Kim Trọng trong ngày Tết Thanh
Minh
của họa sĩ Lê Chánh, treo trong dinh Độc Lập thời VNCH
Trước
khi bàn đến những biến thể của Truyện Kiều trong dân gian, xin viết đôi giòng về
sức lan tỏa của Truyện Kiều. Sự phổ biến của Truyện Kiều không những ở trong nước
mà còn đi vào văn học thế giới. Đã có hàng loạt bản dịch cũng như các bài bình
luận Truyện Kiều bằng rất nhiều ngôn ngữ - Anh, Pháp, Nhật, Đức, Hoa, Ba Lan,
Thụy Điển - của các tác giả người Việt cũng như người nước ngoài.
Lại
nhớ đến chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Bill Clinton năm 2000.
Trong một buổi tiệc chiêu đãi tại Hà Nội, ông Clinton đã khiến thực khách đi từ
ngỡ ngàng đến sửng sốt khi ông dùng 2 câu thơ trong Truyện Kiều để ví mối bang
giao Việt-Mỹ sau thời kỳ chiến tranh:
“Những hình ảnh băng
giá của quá khứ đã bắt đầu tan và những phác thảo về nột tương lai ấm áp chung
đã bắt đầu hình thành. Chúng ta hãy cùng nhau tận hưởng mùa xuân mới” [Frozen images of the
past have begun to thaw and outlines of a warmer shared future have begun to
take shape. Let us make the most of this new spring together].
Lấy
ý từ Truyện Kiều:
“Sen tàn cúc lại nở
hoa,
Sầu dài, ngày ngắn,
đông đà sang xuân”
[Just as the lotus
wilts, the mums bloom forth
Time softens grief,
and the winter turns to spring”]
Hóa
ra ngoài lĩnh vực văn hóa, xã hội, Truyện Kiều đã được đưa vào chính trị. Điều
oái oăm, người ví von lại là Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ chứ không phải là những
nhà “Kiều Học” Việt Nam [1].
“Kim Van Kieu” bản dịch tiếng Anh của Lê Xuân Thủy
(Nhà sách Khai Trí, 1968)
Tôi
còn nhớ ngày xưa mẹ tôi rất tin vào việc bói Kiều, một hình thức giải quyết những
thắc mắc, hồ nghi qua bói toán dựa vào Truyện Kiều. Đặc biệt, ngày đầu năm là dịp
để bói Kiều với khởi đầu là lời khấn vái thành kính:
“Lạy vua Từ Hải
Lạy vãi Giác Duyên
Lạy tiên Thuý Kiều”
Miệng
lâm râm khấn, tay cầm Truyện Kiều với ước nguyện điều mong mỏi. Hai ngón tay
cái mở Truyện Kiều một cách ngẫu nhiên, ngón tay nằm ở dòng nào thì 4 câu Kiều
trong truyện chính là quẻ bói. Chẳng hạn gặp 4 câu lục bát tả cảnh tai họa đến
với gia đình Thúy Kiều:
“Đầy nhà vang tiếng
ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt,
tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của
riêng tây,
Sạch sành sanh vét
cho đầy túi tham”.
Gặp
4 câu này, người xem bói cũng có thể đoán được tương lai bất trắc, điềm tai họa
sẽ đến. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó có thể là một vụ “cưỡng chế” đem lại nhiều
điều vô lý, bất công trong một xã hội mà luật pháp không được tôn trọng!
Cảnh tai họa diễn ra tại nhà viên ngoại họ Vương
(Tranh của họa sĩ Tú Duyên)
Trong
khi “bói” Kiều dựa trên tính cách thần bí thì “lẩy” Kiều là một hình thức chơi
chữ dựa theo thơ văn. Người ta có thể lấy một câu Kiều, sửa đổi một vài chữ cho
thích hợp với hoàn cảnh của mình. Lẩy Kiều đôi khi có giọng điệu khôi hài nhưng
cũng có khi diễn tả một trạng thái nghiêm chỉnh.
Những
ai đã từng trải qua “thời điêu linh” sau năm 1975 tại Việt Nam không khỏi rùng
mình mỗi khi nhớ lại cái thời “tem phiếu”, “nhu yếu phẩm”… Tất cả mọi mặt hàng
đều do nhà nước phân phối, công nhân viên ngoài lương thực còn được phép mua những
mặt hàng “xa xỉ” như vải vóc, quần áo… Có gia đình toàn phụ nữ lại được phân phối
dao cạo râu, áo may ô… Thế cho nên mới có câu lẩy Kiều, than thân trách phận:
“Bắt ở trần phải ở trần
Cho may ô mới được phần
may ô”.
Đó
chính là câu lấy từ Truyện Kiều:
“Bắt phong trần phải
phong trần,
Cho thanh cao mới được
phần thanh cao”
Tranh Thúy Kiều & Kim Trọng của họa sĩ Nguyễn Tư
Nghiêm
Trong
lĩnh vực thơ phú, “vịnh” Kiều là dựa vào các nhân vật trong truyện, được sáng
tác qua cách giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một
vấn đề nào đó.
Ngay
từ đầu truyện, “thằng bán tơ” là đầu mối của mọi gian truân trong suốt cuộc đời
“ba chìm, bẩy nổi” của Kiều khiến nàng phải “bán mình chuộc cha” với giá 300 lượng:
“Mặt trông đau đớn rụng
rời,
Oan này còn một kêu
trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai
nha,
Làm cho khốc hại chẳng
qua vì tiền”.
Nguyễn
Khuyến đã mượn nhân vật “thằng bán tơ” để phác họa hình ảnh một xã hội Việt Nam
đầy bất công. Trong bài “Vịnh thằng bán
tơ” ông viết:
“Có tiền việc trước
mà xong nhỉ,
Thời trước làm quan
cũng thế a?”
“Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ”
[Tranh minh họa trong “Kim Van Kieu” bản tiếng Anh của Lê
Xuân Thủy]
Bên
cạnh thằng bán tơ, còn rất nhiều nhân vật “chủ chốt” đã xuất hiện trong suốt cuộc
đời nàng Kiều. Trước nhất phải kể đến Sở Khanh. Từ cái tên Sở Khanh trong truyện,
ngày nay đã trở thành một danh từ chung chỉ những loại đàn ông chuyên đi lừa
tình và lợi dụng phụ nữ. Nguyễn Du mô tả Sở Khanh bằng hai câu lục bát:
“Quá niên trạc ngoại
tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo
quần bảnh bao”
Sở
Khanh, ở một mức độ nào đó, có thể ví như Cassanova [2] hoặc Don Juan [3] bên
trời Tây. Cái khác là Sở Khanh trong Truyện Kiều tượng trưng cho loại đàn ông
có sức “hớp hồn” phụ nữ nhưng loại thanh niên này không chỉ thích chinh phục
phái yếu mà còn lợi dụng cái mã bề ngoài để thực hiện những âm mưu có lợi cho bản
thân mình. Chính chàng họ Sở đã đưa đẩy một nàng Kiều trong trắng lạc vào lầu
xanh:
“Bạc tình nổi tiếng lầu
xanh
Một tay chôn giết mấy
cành phù dung”
Sở Khanh & Tú Bà
Hồi
còn đi học, đọc Truyện Kiều tôi rất ghét nhất cái tên “Hoạn Thư”. Đối với một học
sinh trung học như tôi, cái tên Hoạn Thư đọc lên thấy xấu xí, nghe như có liên
quan đến “hoạn quan” trong triều đình, chuyên lo đến các cung nữ của vua.
Mãi
cho đến khi trưởng thành tôi mới hiểu, cái tên Hoạn Thư đơn thuần chỉ là “tiểu
thư họ Hoạn” và được Nguyễn Du mô tả là xuất thân trong một “gia đình danh
giá”, lấy người chồng có tên là Thúc Sinh (anh học trò họ Thúc), thuộc loại “ăn
chơi đàng điếm”, “bán trời không văn tự” nhưng lại có tật… sợ vợ!
Đó
cũng là cái đích để Nguyễn Du khai thác, hay nói khác đi, ông muốn chứng minh
“chân lý bất di bất dịch” của phụ nữ qua câu ca dao:
“Ớt nào mà ớt chẳng
cay
Gái nào mà gái chẳng
hay ghen chồng”
Cơn
ghen của Hoạn Thư được nhiều nhà phê bình mô tả là “khốc liệt”, “khủng khiếp”,
“tàn bạo” mà theo thời nay có những biến thể như “cắt của quý”, tạt át-xít,
đánh “dằn mặt”. Tuy vậy, cũng có những người như nhà văn Tạ Quang Khôi mệnh
danh là… “cái ghen nhân từ của Hoạn Thư”. Tâm trạng của “sư tử Hà Đông” tuy rối
bời nhưng ít ra Hoạn Thư còn biết bình tâm suy nghĩ:
"Ví bằng thú thật
cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới
là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy
nền,
Tốt chi mà rước tiếng
ghen vào mình”.
Tôi
lại nghĩ khác. Ghen tuông thời của Truyện Kiều bị ảnh hưởng bởi quan niệm “trai
năm thê, bảy thiếp”, “vợ lẽ, vợ mọn” là vấn đề được xã hội công nhận nên chi
người phụ nữ dù cũng ghen tuông nhưng chỉ giới hạn ở mức độ nào đó. Còn thời
nay thì “phụ nữ vùng lên” đòi hỏi quyền bình đẳng “một vợ, một chồng”, đấng này
râu nào trót lỡ vi phạm thì chỉ có tính cách lén lút mà thôi.
Máu
ghen của Hoạn Thư mang tính cách “thâm trầm” nhưng lại không kém phần… “thâm độc”.
Tiểu thư họ Hoạn đã giải quyết chuyện đèo bồng của Thúc Sinh bằng mưu kế chứ
không như “sư tử Hà Đông” ngày nay nhất quyết phải “tính sổ” tình địch bằng vũ
lực. Có điều các đức ông chồng xưa cũng như nay, không ít thì nhiều, đều có
tính hoặc “cả nể” hay tệ hại hơn là… sợ vợ. Cho dù các ông cố biện minh là “sợ
vợ mình” chứ đâu có sợ ai khác!
Tranh dân gian: “Đánh ghen”
Các
cụ ngày xưa coi Truyện Kiều là “dâm thư” chính vì sự xuất hiện của cặp bài
trùng Mã Giám Sinh & Tú Bà trong giới lầu xanh. Nguyễn Du viết 4 câu lục
bát về Mã Giám Sinh chuyên nghề “chăn dắt gái” và cũng là chồng của Tú Bà:
“Chẳng ngờ gã Mã Giám
Sinh,
Vẫn là một đứa phong
tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi
đen,
Quen mùi lại kiếm ăn
miền nguyệt hoa”
Mã
Giám Sinh đi khắp nơi để tuyển về cho Tú Bà một đội ngũ “chân dài, móng đỏ”.
Không những thế, hắn còn “tự thưởng” mình bằng cách “thử hàng” mỗi khi mua được
món hàng “tài sắc vẹn toàn” như nàng Kiều.
Tú
Bà, một “má mì” thời nay, kết hợp với Mã Giám Sinh thành một “công ty mua bán
thịt tươi” chuyên cung cấp “dịch vụ tươi mát” cho khách làng chơi. Thế là “mạt
cưa, mướp đắng” biến thành một tổ hợp kinh doanh “nghề không vốn” trên thân xác
của những tiểu thư khuê các như nàng Kiều:
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã trở về
già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà
nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi
bên một phường”.
Nhan
sắc của Tú Bà thuộc loại “không thể nào xấu hơn” với màu da “nhờn nhợt” cộng với
một thân hình “cao lớn đẫy đà”:
“Thoắt trông nhờn nhợt
màu da.
Ăn gì cao lớn đẫy đà
làm sao”
Nét
đẹp của Tú Bà thì hoàn toàn không có nhưng mụ lại là cả một kho kinh nghiệm
trong nghề “buôn phấn, bán hương”:
“Nghề chơi cũng lắm
công phu
Làng chơi ta phải biết
cho đủ điều”
Nào
là những chiêu thức “mập mờ đánh lận con đen” để qua mặt khách làng chơi bằng
những “kỹ thuật” như:
“Nước vỏ lựu, máu mào
gà,
Mượn màu chiêu tập lại
là còn nguyên”.
Hơn
thế nữa, mụ còn dạy các đệ tử của thần Bạch Mi một loạt những “kỹ thuật” chiều
chuộng khách làng chơi:
“Mụ rằng: "Ai
cũng như ai,
Người ta ai mất tiền
hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều
hay
Nỗi đêm khép hở nỗi ngày
riêng chung
Này con thuộc lấy làm
lòng
Vành ngoài bảy chữ
vành trong tám nghề" [4]
Thế
nào là “bảy chữ” và thế nào là “tám nghề”? Xin xem chú thích nếu người đọc tò
mò muốn biết. Ấn Độ có Kama Sutra [5], Trung Hoa có Nhục Bồ Đoàn [6] còn ở Việt
Nam, Truyện Kiều bị coi là “dâm thư” cũng không có gì là… “oan uổng”.
Hẹn
tái ngộ cùng người đọc Truyện Kiều vào một dịp khác vì chúng ta khi đọc lại còn
có rất nhiều điều, tốt cũng như xấu, để nói. Xin mượn 2 câu cuối của Truyện Kiều
thay lời kết cho bài viết này:
“Lời quê chắp nhặt
dông dài,
Mua vui cũng được một
vài trống canh”.
***
Chú
thích:
[1]
Chắc hẳn những cố vấn người Việt của Tổng thống Clinton đã phải làm việc tích cực
trong việc soạn những bài diễn văn cho ông Clinton trong chuyến thăm chính thức
Việt Nam năm 2000. Tổng thống Clinton đã tỏ ra rất am hiểu về lịch sử cũng như
văn hóa Việt Nam, ông cũng rất tự tin khi trình bày những vấn đề này trước cử tọa
người Việt thuộc mọi thế hệ và thành phần xã hội tại Hà Nội cũng như Sài Gòn.
Xem
thêm bài viết “Bên Thắng Cuộc/Quyền bính
(3): Lê Khả Phiêu & Bill Clinton”
[2]
Cassanova: tên thật của Giacomo Girolamo Casanova de Seingalt (1725 – 1798), một
một “tay chơi” người Ý. Phụ nữ là “chuyện lớn” của đời ông. Tài liệu ghi lại rằng
Casanova có đến 122 người tình trong quãng thời gian gần nửa thế kỷ. Trong số
đó, nhiều người đã mang đến cho Casanova niềm đắm đuối, có người mang đến cho
ông tai họa, bệnh tật và đau khổ. Một số tình nhân của ông là người đức hạnh,
còn số khác thì phóng túng. Nhưng nói chung, tất cả những người tình của
Giacomo Casanova đều “biết ơn” ông bởi Giacomo Casanova đã biết cách yêu họ say
đắm, biết cách chiếm đoạt họ một cách nhiệt thành và cũng đã biết cách rời bỏ họ
một cách lịch lãm.
[3]
Don Juan: một nhân vật trong văn học Tây Ban Nha, xuất hiện lần đầu trong kịch El burlado
de Sevilla y convidado de piedra của Tirso de Molina (công diễn năm 1613,
in thành sách năm 1630). Don Juan là người vô thần, dám phỉ báng Chúa, thích
phiêu lưu trong chuyện tình ái, có tài quyến rũ, lừa đảo phụ nữ thuộc nhiều tầng
lớp xã hội, từ nữ công tước, nữ quý tộc cho đến những cô gái quê.
[4] “Vành ngoài” là bề ngoài, là cách đối xử với
khách làng chơi. "Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng chữ để dễ nhớ.
1.
Khấp: khóc lóc tỉ tê khiến khách xúc
động thương xót.
2.
Tiễn: giả cắt tóc thề nguyền để khách
tin.
3.
Thích: viết tên khách vào tay mình,
giả ý thương yêu.
4.
Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách.
5.
Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả
xin làm vợ lẽ.
6.
Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ
lòng chung thuỷ.
7.
Tử: giả liều chết để khách khuyên
ngăn.
"Vành
trong" là bề trong, là cách đối xử bên trong với khách. "Tám nghề"
là cách ân ái với khách, chung đụng nhau và tuỳ từng tính cách của mỗi đối tượng,
để làm cho khách khoan khoái về nhục dục.
1.
Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích
cổ thôi hoa"
2.
Tiếp người to béo thì dùng cách "kim
liên song toả"
3.
Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại
xiển kỳ cổ"
4.
Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn
đả khinh khao"
5.
Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn
khuyên tam trật"
6.
Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả
trì hữu trì"
7.
Tiếp người si tình thì dùng cách "toả
tâm truy hồn"
8.
Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp
thần nhiệm toả"
[5]
Kama Sutra là một cuốn sách Ấn Độ cổ, biên khảo về tình dục được viết bằng tiếng
Phạn. Tác phẩm gồm 7 phần, với khoảng 1.250 khổ thơ được cho là do thiền sư Bà
la môn Mallanaga Vatsyayana, sống ở Pataliputra, phía bắc Ấn Độ, viết vào thế kỷ
thứ III.
Theo
tiếng Phạn, "Kamadeva" là tên của vị thần tình yêu thể xác (tương tự
thần Eros hay Cupid của Hy Lạp) và "Sutra" có nghĩa là
"kinh" hoặc "châm ngôn".
Kama
Sutra được hiểu là Kinh Hoan Lạc hoặc
là những luận bàn về tình yêu thể xác. Những luận bàn đó có nguồn gốc từ nhiều
thế kỷ trước công nguyên và đến thế kỷ thứ III, thì được Vatsyayana tập hợp lại
thành tuyển tập với nhiều tranh minh hoạ, nhiều lời khuyên và nhiều hình ảnh mô
tả tư thế tình dục.
Kama
Sutra đề cập đến nhiều khía cạnh trong đời sống tình dục, như mô tả các tư thế
giao hợp, những gì đôi bạn tình chờ đợi ở nhau và đưa ra lời khuyên hữu ích. Các
vấn đề tình dục được Kama Sutra đề cập rất chi tiết, cụ thể, như vấn đề
"kích thước" vấn đề hoà hợp tình dục; "lệch pha" thời điểm,
lệch pha ham muốn; vai trò của trí tưởng tượng; những tư thế, kiểu vuốt ve, ôm ấp;
cách sửa chữa thất bại khi không làm cho phụ nữ được thoả mãn...
[6]
Nhục Bồ Đoàn là một tác phẩm văn học
của Trung Hoa, dùng mặt trái để nói lên mặt phải. Nhân vật chính của truyện là
Bán Dạ Sinh, biệt hiệu của một chàng trai trẻ đam mê tửu sắc, thích ban đêm mà
không thích ban ngày, thích lúc nửa đêm mà không thích sau nửa đêm. Đây là người
không thích công danh, tự phụ là người thông minh tài hoa nhất trên đời và muốn
có những người đẹp nhất thiên hạ.
Một
vị túc nho, Thiết phi đạo nhân, có con gái tên Quý Hương, danh giá và học thức,
sau nhiều lần thuyết phục đã chấp nhận gả con cho Bán Dạ Sinh nhưng với điều kiện
phải ở rể. Lúc đầu, với những gì được giáo dục từ nhỏ, cô gái không chấp nhận
những việc sai trái của chồng. Sau đó, do sự thuyết phục khéo léo, mà cô gái đã
sa đà vào bản ngã của mình.
"Thiết
phi đạo nhân" là người cố chấp, thích chất phác, không ưa phong lưu nên
không hợp với chàng rể. Chàng rể Bán Dạ Sinh ra đi, kết bạn với "Tái côn
lôn", một siêu trộm tự phụ cho rằng không gì không trộm được, và có thể lặp
lại bất cứ khi nào cũng được.
Một
vị tiên được đặc cử xuống trợ giúp Bán Dạ Sinh bằng cách ghép dương vật của chó
với của anh ta để tăng sức mạnh cũng như độ lớn.
***
(Trích
Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi
Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà
Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và
Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng
viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng
Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào ngchuyệnhề
báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những
chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác
giả sẽ viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập
niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Bài phân tích Truyện Kiều dí dỏm nhưng rất sâu sắc-hay
Trả lờiXóa