Tại sao thế giới ngày nay lại phẳng chứ không tròn như
ta thường biết về hình dạng trái đất? Theo Thomas L. Friedman, chúng ta hiện
hữu trên một trái đất hình tròn nhưng cái thế giới mà chúng ta sống ngày nay
được ngày càng làm phẳng
(flattening).
Tại sao vậy? Phẳng
vì những người sống trong thế giới đó ngày càng giao tiếp với nhau qua kết nối
của công nghệ thông tin, vượt qua những rào cản về địa lý, chính kiến và tri
thức.
Một thí dụ điển hình: các công ty đa quốc gia có trụ sở tại
Hoa Kỳ có thể thiết lập những hệ thống cung ứng nhân sự từ những nước xa xôi
như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga… Từ các quốc gia này, đội ngũ nhân viên, chuyên viên
có thể làm việc trực tuyến cho công ty mẹ ở cách nửa vòng trái đất.
Đây là quá trình được gọi là ‘Outsourcing’, tạm dịch là tuyển dụng nhân viên từ nước ngoài để
phục vụ cho các công ty đa quốc gia. Outsourcing,
trên danh nghĩa là một sự hợp tác bình đẳng theo hàng ngang nhưng xét về khía
cạnh nhân bản, người ta lại cho rằng đó chỉ là cách thuê mướn tinh hoa từ những
đất nước có nguồn nhân công rẻ như Ấn Độ và Trung Quốc.
Outsourcing, theo
Friedman, là một trong những biến động quan trọng nhất vào cuối thế kỷ 20 và
đầu thế kỷ 21. Công nghệ thông tin đã kết nối loài người trên trái đất và thế
giới ngày càng trở nên phẳng hơn, tạo cơ hội giúp các quốc gia trở nên phồn
thịnh hơn nhưng đồng thời cũng đòi hỏi các quốc gia phải triến nhanh hơn nếu
không muốn bị tụt hậu.
Có đến 10 yếu tố tác động đến việc làm phẳng thế giới mà
Friedman gọi là tác nhân làm phẳng
(flattener).
Flattener #1 là sự
sụp đổ của bức tường Berlin
ngày 9/11/1989. Friedman cho rằng đây là bước khởi đầu của ý tưởng về ‘cộng đồng thế giới’, từ đó hình thành
Liên minh Châu Âu (European Union) và đồng tiền chung euro. Biến cố này cũng là
sự thoái trào của cuộc chiến tranh lạnh
(The Cold War) giữa hai chủ nghĩa Tư bản và Cộng sản.
Phiên bản hệ điều hành Windows 3.0 được tung ra thị trường
ngày 22/5/1990, chỉ 6 tháng sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Kể từ đó, người ta có thể nối
máy tính cá nhân với điện thoại để gửi e-mail qua các nhà cung cấp dịch vụ
Internet (ISP) như CompuServe hoặc America Online. Friedman dùng lối chơi chữ
khá thú vị khi ông đặt tiểu đề: “When the
Walls came down and the Windows went up” (Khi Bức tường [Berlin ] sụp đổ và Cửa sổ [Windows] mở
ra).
Flattener #2 là sự
ra đời của trình duyệt các trang web vào ngày 9/8/1995 do Netscape tung ra thị
trường. Khi đó Netscape chỉ là một công ty khởi nghiệp nhỏ bé tại Mountain
View, Califormia, nhưng đã khiến cả thế giới có thể tiếp cận các trang web một
cách dễ dàng.
Flattener #3 là
một cuộc cách mạng các phần mềm (software) thuộc nhiều lãnh vực trong khi Flattener #4 được mệnh danh là giai đoạn
Open-Sourcing qua đó người sử dụng
máy vi tính có thể dùng những ‘nguồn mở’ mà không phải trả một khoản phí nào
cho các công ty cung cấp.
Điển hình cho loại ‘nguồn mở’ là trang web Wikipedia, xuất
xứ từ chữ Wikis (nhanh chóng) của Hawaii .
Wikipedia khởi đầu là dự án của Jimmy Wales, người đứng đầu công ty Internet
Bomis.com. Wales
chủ trương thành lập một bộ từ điển bách khoa bằng nhiều thứ tiếng và điều đặc
biệt là trang web này luôn luôn ‘mở’ để người sử dụng có thể hiệu đính từ máy
tính của mình. Tính đến tháng 4/2004, Wikipedia đã vượt qua con số 250.000 bài
viết bằng tiếng Anh và 600.000 bài bằng các ngôn ngữ khác, trong đó có tiếng
Việt.
Flattener #5: Outsourcing đã được đề cập đến ở phần
trên và Flattener #6 là nhân tố mang
tên Offshoring, tạm dịch là hướng về
nước ngoài. Trong khi Outsourcing nỗ
lực tìm nguồn nhân lực tại nước ngoài, Offshoring
là tiến trình di dời nguyên trạng một nhà máy đến một nước khác vì những lý do
như giá nhân công rẻ và giá thành trong việc cung ứng sản phẩm cho thị trường
nơi đặt nhà máy sẽ thấp hơn.
Tiến trình Offshoring
(hướng ra nước ngoài) được các công ty đa quốc gia đẩy mạnh kể từ khi Trung
Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11/12/2001.
Trung Quốc, Ấn Độ là những thị trường đông dân nên Offshoring trở thành một chính sách tối ưu trong kinh doanh.
Flattener # 7: Supply-Chaining,
mạng lưới cung ứng là một hình thức hợp tác theo chiều ngang giữa nhà cung cấp,
người bán lẻ và người tiêu dùng. Phương pháp này khiến thế giới trở nên phẳng
hơn. Thí dụ hệ thống siêu thị Wal-Mart mua vào 260 tỷ USD hàng hóa để phân phối
qua mạng lưới gồm 108 trung tâm phân phối và phục vụ 3.000 cửa hàng khắp nước
Mỹ trong năm 2004. Trên quy mô toàn cầu, khách hàng có thể ăn món Sushi của
Nhật tại Arkansas ,
cách nhau nửa vòng trái đất.
Flattener #8:
Insourcing. Trong khi Supply-Chaining
thường được các công ty 'đại gia' như Wal-Mart thực hiện thì ở một tầm vóc
khiêm nhường hơn, các công ty nhỏ áp dụng chính sách Insourcing. Họ sử dụng những mạng lưới dịch vụ của các công ty khác
như UPS (United Parcel Service) để tiến hành việc kinh doanh. Với 270 phi cơ và
hàng ngàn xe tải, UPS sẵn sàng chuyển một chiếc laptop hỏng hóc đến địa chỉ của
hãng Toshiba để sửa và khi sửa xong, bạn chỉ việc đến cửa hàng USP nhận về.
Flattener #9:
In-Forming (tìm kiếm thông tin) góp một phần không nhỏ trong việc làm phẳng
thế giới với các công cụ tìm kiếm các trang web của Yahoo!, Google, MSN
(Microsoft Network)… Theo thống kê năm 2004, Yahoo! đã vượt con số 300 triệu
người sử dụng từ khắp nơi trên thế giới bằng rất nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Flattener #10 được
Friedman mệnh danh là Steroids. Nếu
trong thể thao, Steroid là chất
doping, kích thích sự hưng phấn của vận động viên thì đối với Friedman, Steroids là yếu tố flattener cuối
cùng làm tăng tiến trình ‘phẳng hóa’ của thế giới vào thế kỷ thứ 21. Đó là
những tiến bộ về kỹ thuật số nói chung, riêng trong phạm vi điện thoại di động,
nước Nhật với công ty NTT DoCoMo đã tiến xa hơn Hoa Kỳ trong việc cung cấp dịch
vụ cho khách hàng.
DoCoMo là chữ tắt của ‘Do
Communications Over the Mobile Network’ (Liên lạc qua hệ thống di động) và
người Nhật biết đến DoCoMo qua tên ngắn gọn: ‘Bất cứ nơi nào’. Ngay từ năm
2004, khách hàng tại Nhật đã có thể sử dụng điện thoại di động qua màn hình
video hai chiều, một sự kết hợp nghe-nhìn hoàn hảo.
Minh họa nội dung cuốn sách "The World Is Flat"
Friedman cho rằng thế giới đã trải qua 3 giai đoạn có tính
cách lịch sử:
(1) Từ năm 1492 khi Christopher Columbus khám phá ra châu Mỹ
đến năm 1800 với sự xuất hiện của các quốc gia được coi là cường quốc;
(2) Từ năm 1800 đến 2000 với sự ra đời của động cơ hơi nước,
giao thông đường sắt và sự hình thành của các công ty đa quốc gia; và
(3) Từ năm 2000 với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, mỗi
cá nhân được kết nối với nhau qua mạng lưới cáp quang toàn cầu. Từ giai đoạn
sau cùng này, ‘hệ thống thế giới phẳng’
đã được hình thành.
Một số các nhà phê bình cho rằng Friedman đã quá đơn giản
hóa khi phân tích 3 giai đoạn lịch sử của thời kỳ cận đại. Tác giả hình như chỉ quan tâm tới thế giới kinh doanh và vai trò
của các đại công ty mà quên đi những thực tế vô cùng phức tạp khác của thế giới như vai trò
của các quốc gia, các lực lượng xã hội hay tôn giáo.
Friedman cho rằng hệ thống Thế Giới Phẳng phát sinh tiến trình Toàn cầu hóa. Giả sử thế giới này biến thành một thị trấn thì châu
Âu sẽ là một viện dưỡng lão, châu Mỹ Latin là một khu phố sinh động nhưng chỉ
hoạt động về đêm, châu Phi là khu ổ chuột còn Ả Rập là một khu tối tăm mà ít
người bên ngoài muốn thâm nhập … Không thấy tác giả nói về châu Á và bắc Mỹ
trong cái thị trấn giả tưởng đó.
Có người lại cho rằng Friedman đã có sự lẫn lộn giữa quá
trình toàn cầu hóa với quá trình ‘Mỹ hóa’ (Americanisation).
Điều này cũng dễ hiểu vì tác giả là một nhà báo Mỹ, làm việc cho tờ New York Times và đã có đến 3 lần đoạt
giải thưởng Pulitzer về báo chí. Friedman có khuynh hướng đề cao nước Mỹ và coi
đây là một kiểu mẫu phát triển đúng đắn nhất. Đó cũng là lý do khiến người ta
thường khó phân định đâu là quá trình
toàn cầu hóa và đâu là quá trình Mỹ
hóa.
Friedman thường
tiếp xúc với những chuyên gia thuộc tầng lớp ưu tú tại các nước nên ông có thể ngộ nhận ở đâu người ta cũng nói cùng một thứ ngôn
ngữ, cũng sống và làm việc giống nhau. Chắc chắn khi
bước ra khỏi ‘tháp ngà của các thành phần ưu tú’ người ta sẽ đối mặt với những thực tại khốn khổ của sự nghèo đói, thất
học và phân hóa xã hội của khu vực đông hàng tỷ người được mệnh danh là thế giới thứ ba này.
Friedman là người theo lý thuyết ‘tân tự do kinh tế’. Ông kêu gọi các nước nghèo thuộc thế giới kém
phát triển hãy ‘tự
do hóa kinh tế’, đơn giản chỉ vì
đó là cách duy nhất và bền vững nhất để đưa một đất nước thoát khỏi tình
trạng nghèo đói.
Thomas L. Friedman, tác giả "The World Is Flat"
Thế
giới phẳng và Toàn cầu hóa khiến cho các xã hội và nền văn hóa khác
nhau giao thoa trực tiếp với
nhau nhiều hơn và kết nối con người lại gần với nhau
hơn, nhưng Friedman cũng phải
nhìn nhận sự xuất hiện của những
lực cản gây trở ngại trong nỗ lực làm phẳng thế giới.
Trong Chương 13 nói về ngày 9/11 và ngày 11/9 (11/9 Versus 9/11), Friedman cho rằng đó
là 2 ngày trọng đại nhất trong lịch sử của thế giới phẳng. Ngày 9/11/1989 bức
tường ngăn cách Đông và Tây Berlin
sụp đổ sau khi được xây dựng vào năm 1961 tượng trưng cho cuộc chiến tranh
lạnh. Ngược lại với những con số trên, ngày 11/9/2001 nước Mỹ bị lực lượng cực
đoan Hồi Giáo Al Qaeda tấn công khủng bố vào New York , tượng trưng cho cuộc chiến khủng
bố vào tiến trình Mỹ hóa.
Theo ông, sở dĩ có sự điên cuồng chống Mỹ của khối Hồi Giáo
cực đoan ngày 11/9 là vì ‘người ta đã quá
gần gũi với nhau [trong Thế giới phẳng] nên
rất dễ đem so sánh mình [Hồi Giáo] với
người khác [nước Mỹ]’.
Nhiều người cho rằng giải thích như vậy là chưa thỏa đáng và
cũng chưa hiểu đúng về lịch sử văn minh của các nước Ả Rập.
Trong Chương 12: Lý thuyết Dell về ngăn ngừa xung đột (The Dell Theory of Conflict Prevention) Friedman cho rằng ‘không
có hai quốc gia nào cùng nằm trong một dây chuyền cung ứng toàn cầu, như dây
chuyền Dell chẳng hạn, sẽ gây chiến với nhau, chừng nào họ vẫn còn ở trong cùng
dây chuyền đó’ (Dell là một trong những hãng sản xuất máy tính lớn
nhất Hoa Kỳ).
Lý thuyết này hoàn toàn không đúng một cách tuyệt đối. Thực
tế đã chứng minh, ở tổ chức WTO, các quốc gia luôn tính toán hơn thiệt về cái
giá của sự xung đột thương mại. Chẳng hạn tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc,
nếu thấy có lợi họ vẫn đối đầu với nhau, cho dù giữa hai nước đã có những mối
quan hệ thương mại hay những dây chuyền cung ứng như thế nào đi nữa.
Điều nghịch lý cuối cùng nằm ngay trong hình ảnh của bìa
sách. Phải chăng Thế Giới Phẳng của Friedman sẽ dẫn đến việc hai chiếc tầu sẽ
trôi xuống vực thẳm trước mặt vì trái với lý lẽ thường tình về việc trái đất có
hình tròn chứ không phẳng?
Bìa sách "The World Is Flat"
Chủ tịch tập đoàn Microsoft, Bill Gates, đưa ra một nhận xét đáng suy nghĩ: “Thế giới ngày càng nhỏ đi, nhưng có phải nhờ
thế mà chúng ta nhìn thấy hết được điều kiện sống của mọi người không?
Hay là thế giới vẫn còn rộng lắm, đến nỗi chúng ta vẫn chưa thể thấy hết hoàn
cảnh nghèo khổ của người khác”.
Xin mượn lời kết của Bill Gates: “Tôi sợ rằng sẽ
chỉ có một nửa thế giới trở nên phẳng và tình trạng đó sẽ khó thay
đổi”.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống
lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả bắt đầu
viết chương cuối cùng mang tên… Thời
xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
7 Comments
on Multiply
tangtinhtinh2
wrote on Apr 16, '11
Thế giới vẫn cứ cong :D. Nếu phẳng, khoảng cách giữa các múi
nhấp nhô còn lộ hơn nữa.
Người ta từng cho rằng quyết định luận kinh tế của Các Mác "đối lập" với quyết định luận văn của Marx Weber nhưng rồi nhận thấy đó là hai cách tiếp cận hiểu biến đổi xã hội khác nhau nhưng bổ sung cho nhau. Giờ mình có thể xem tác phẩm Thế giới phẳng về tác động của công nghệ như một góc tiếp cận mới không bác nhỉ. Thực sự công nghệ đang can thiệp cực kỳ lớn vào đời sống nhân loại. Tác phẩm này gợi cho chúng ta tư duy tiếp...
Người ta từng cho rằng quyết định luận kinh tế của Các Mác "đối lập" với quyết định luận văn của Marx Weber nhưng rồi nhận thấy đó là hai cách tiếp cận hiểu biến đổi xã hội khác nhau nhưng bổ sung cho nhau. Giờ mình có thể xem tác phẩm Thế giới phẳng về tác động của công nghệ như một góc tiếp cận mới không bác nhỉ. Thực sự công nghệ đang can thiệp cực kỳ lớn vào đời sống nhân loại. Tác phẩm này gợi cho chúng ta tư duy tiếp...
nguyenngocchinh
wrote on Apr 16, '11
tangtinhtinh2
said “Thế giới vẫn cứ cong :D. Nếu
phẳng, khoảng cách giữa các múi nhấp nhô còn lộ hơn nữa.”
Như đã trình bày trong bài viết, tôi hoàn toàn không tin
tưởng một số lập luận của Thomas Friedman cho dù 10 flatteners ông đưa ra là
những yếu tố của thực tế. Thế giới chỉ phẳng ở một phần nào đó thôi, vẫn còn
những khu vực trũng trong thế giới thứ 3, thậm chí trong cả thế giới thứ từ thứ
3 tiến dần sang thứ 2 là các nước đang phát triển, trong đó có cả Việt Nam.
tangtinhtinh2
wrote on Apr 16, '11
À, em đồng ý với ý kiến rằng tác giả đã để quan điểm Mỹ hoá chi phối mạnh mẽ quá khi dự báo
phát triển xã hội. Thực ra quan điểm đó tự nó đã mang chất phân tầng xã hội
mạnh mẽ, thậm chí là không có hướng xoá bỏ, giảm thiểu phân tầng. Sự PHẲNG chỉ
có thể giới hạn ở chỗ xoá phần nào ranh giới xã hội về mặt địa lý, tạo điều
kiện cho toàn cầu hoá văn hoá (cái này còn nhiều tranh cãi, thậm chí có dự báo
một xu hướng ngược lại là các nỗ lực bảo thủ văn hoá cũng gia tăng). Không dễ
dàng thế với toàn bộ đời sống vì công nghệ có thể tạo đột phá nhưng nỗ lực làm
chủ, chiếm hữu lợi ích vẫn là cái thuộc về con người.
andropause
wrote on Apr 16, '11
Cám ơn anh Chính đã làm một review rất hay về quyển này. Trước
kia em có đọc quyển Xe Lexus và cành
Olive cũng của Friedman. Em chỉ nhớ chi tiết các quỹ đầu tư như con bạch
tuộc sẽ nuốt hết tất cả. Bữa nào rảnh anh review quyển này luôn nha.
nguyenngocchinh
wrote on Apr 18, '11
Về cuốn "The Lexus and the Olive Tree" của
Friedman xin hẹn một dịp khác sẽ review.
Sự nghiệp sáng tác của Friedman cũng chỉ mới có 4 cuốn sách. Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn "From Beirut toJerusalem "
(1989), kế đến là "The Lexus..." (1999), "Longitudes and
Attitudes" (2002) và cuối cùng là "The World Is Flat" (2005).
Sự nghiệp sáng tác của Friedman cũng chỉ mới có 4 cuốn sách. Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn "From Beirut to
songhong wrote on
Apr 18, '11
Cho rằng văn minh khoa học vật chất cơ giới có làm cho thế
giới phẳng lỳ đi nữa, lòng người muôn đời vạn nẻo vẫn cong cong...
Chào anh Chính, xin phép anh cho tôi được đăng 2 bài về: Thế giới Phăng" ở trang nhà:
Trả lờiXóahttps://nuocnha.blogspot.com
Cám ơn anh trước.