“Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó…”
Đó
là những ca từ mở đầu cho bài nhạc quen thuộc “Ly rượu mừng” [1] của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Mỗi độ xuân về,
cho đến tận bây giờ, “Ly rượu mừng”
đã đi vào ký ức của người miền Nam nói chung và người Sài Gòn nói riêng. Tuy
nhiên, mãi tới năm nay (2016) nhà nước mới “cởi trói” [2] cho một bản nhạc tưởng
chừng như… “vô tội vạ”.
Hình
như, theo quan điểm chính trị của Cục Nghệ thuật Biểu diễn, lời của bản nhạc có
câu chúc “người binh sĩ lên đàng” rồi
lại vinh danh họ là “người vì nước quên
thân mình”… (hiểu ngầm là quân nhân VNCH):
“… Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sáng cuộc đời lành
Mừng người vì Nước quên thân mình…”
Bản
nhạc được sáng tác năm 1956 với âm điệu tươi vui như một lời chúc Tết tốt đẹp
theo truyền thống dân tộc. Lời chúc đó gửi tới mọi thành phần xã hội: từ “anh
nông phu”, “người công nhân”, “đôi uyên ương”, “người nghệ sĩ” cho đến các
thương gia và binh sĩ. Ngay từ khi ra đời, ca khúc đã được lòng khán thính giả
và là tác phẩm được nghe nhiều nhất trong mỗi dịp xuân về tại Miền Nam.
Sài
Gòn xưa ăn Tết rất kỹ. Theo đúng tính cách phóng khoáng, “xả láng” và “chịu
chơi” của người Phương Nam:
“Tháng giêng là tháng
ăn chơi
Tháng hai cờ bạc,
tháng ba rượu chè”.
Người
Miền Nam dùng thuật ngữ “ăn nhậu” để mô tả những hoạt động vui chơi, giải trí
sau những ngày làm việc cật lực. Đó là cái tinh thần… “xả láng sáng về sớm”. Ngày
Tết người ta tạm quên những công việc hàng ngày để đón mừng năm mới với hai thú
vui chính là ăn uống và “nhậu nhẹt”.
Tùy
theo túi tiền của từng người, rượu có thể là “rượu tây” thứ “xịn” như Whiskey,
Bourbon, Johny Walker (Ông Già Chống Gậy), Champagne… hoặc các loại rượu “nội
hóa” như Đế Gò Đen hay chai bia BGI “Con Cọp”… Để “đưa cay” nhiều khi chỉ cần “củ
kiệu tôm khô”, thậm chí chỉ là miếng xoài, trái cóc. Dân nhậu thường nhắc:
“Ăn nem Thủ Đức
Uống rượu Bến Lức Gò
Đen”.
Đối
với nhiều gia đình, thiếu bánh chưng, bánh tét sẽ mất đi hương vị của Tết. Có
nghèo lắm cũng cố rước về 1 hay 2 đòn bánh tét để trước là cúng ông bà và sau
đó là “xẻ” ra cho con cháu để tìm lại chút hương vị ngày xuân. Có thêm vài miếng
dưa món ăn kèm sẽ làm cho miếng bánh chưng, bánh tét đỡ ngán!
Nồi
thịt kho hột vịt lúc nào cũng hiện diện trên bếp, hâm đi hâm lại sau mỗi lần
ăn. Hạt dưa cắn lách tách đến độ đỏ hết hai vành môi, khỏi cần tô son. Có nhiều
loại mứt Tết làm từ cây trái: mứt dừa, mứt bí, mứt mãng cầu, mứt me… Trái cây
tươi thì có dưa hấu giải nhiệt trong cái nắng hanh vàng của những ngày Tết.
Người
Sài Gòn có câu thật dí dỏm “Cầu Dừa Đủ
Xài” là tổng hợp của của 4 loại trái: mãng cầu, dừa, đu đủ và xoài. Ngày
nay, lang thang trên mạng tôi bắt gặp không phải là 4 thứ trái cây mà còn thêm
cả Bơm (táo), Vú (vú sữa), Sung, Quất (tắc), Bầu.. Ta có một bài thơ “ngũ ngôn
tứ tuyệt” rất gợi hình trong ngày Tết:
“Bơm vú dừa đủ xài
Cầu sung dừa đủ quất
Cầu quất dừa đủ bầu
Cầu bầu dừa đủ sữa”
Hết
“ăn” lại nói đến chuyện “chơi” trong ngày Tết. Về khoản này, dân Sài Gòn chiếm
ngôi vị “số dách” trong các món chơi. Tuy nhiên, cũng phải xác định có hai
cách: “chơi” trong nhà và “chơi” ngoài đường. Nói khác đi là những trò đỏ đen,
bài bạc vui xuân ngoài cộng đồng hoặc trong gia đình.
Có
thể nói, “bầu cua cá cọp” là món thịnh hành nhất trong ngày Tết, diễn ra khắp mọi
nơi, từ trong nhà ra ngoài đường. Sòng bầu cua lưu động ngoài đường còn có cả
những người “canh me”, hễ thấy bóng dáng “phú-lít” là báo động giải tán.
Lập
sòng bầu cua cũng đơn giản. Chỉ cần một miếng vải hoặc giấy vẽ hình 6 biểu tượng:
nai, bầu, gà, cá, tôm và cua. Nhà cái còn trang bị thêm 3 viên súc sắc hình khối
vuông, trên mỗi mặt có vẽ hình các biểu tượng tương ứng với 6 “linh vật”. Cần
thêm một cái chén và cái đĩa để “lắc” ba viên xúc xắc.
Người
chơi chỉ việc đặt tiền vào những “linh vật” sau khi nhà cái lắc 3 viên súc sắc
được giữ kín trong chén úp trên đĩa. Sau khi mở chén, ba con súc sắc xuất hiện
3 “linh vật” và những ai đặt tiền vào linh vật đó sẽ được nhà cái “chung tiền”.
Ngược lại, tiền đặt vào những ô không xuất hiện nhà cái sẽ… “hốt” hết.
Tính
theo xác suất tỷ lệ thắng thua đối với nhà cái là 50% nhưng thực tế mỗi lần mở
chén nhà cái chỉ thắng hoặc huề chứ ít khi thua. Trường hợp cả ba súc sắc đều
giống nhau, nhà cái sẽ chung gấp ba nhưng nếu không ai đặt cửa này thì nhà cái
sẽ “thắng lớn” vì gom tiền hết sòng!
Có
người giải thích trò “bầu cua cá cọp” là một biến thể của “roulette” ở Phương
Tây hay “tài sửu” (đại & tiểu) của Tầu. Đây là một trò cờ bạc thuộc loại
“bình dân” có sức hấp dẫn cả người lớn lẫn trẻ em. Đối với trẻ em, nhân ngày Tết
nhận tiền “lì xì” thường ghé vào các đám bầu cua trong xóm hoặc vui chơi trong
gia đình, anh chị em tổ chức đánh bầu cua “thử thời vận năm mới”. Có một câu
hát dí dỏm trẻ con đặt ra thời xa xưa khi chuyện chưởng của Kim Dung thịnh
hành:
“Có cô gái Đồ Long lắc
bầu cua,
Lắc ba cái ra ba con
gà mái…”
Miền
Nam tiếp xúc với văn hóa Phương Tây rất sớm nên bộ “Bài Tây” 52 cây đã thâm nhập
vào các tỉnh phía Nam ngay sau khi người Pháp đặt chân đến Sài Gòn. Người ta
làm quen với các con bài mang 4 ký hiệu: ♥ (cơ), ♦ (rô), ♣ (chuồn), ♠ (bích),
tượng trưng cho 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông trong khi bộ bài có 52 lá để chỉ 52
tuần trong một năm.
Mỗi
lá bài còn có số in tương ứng với số của quân bài. Riêng lá bài K (King) có
hình vua được “Việt hóa” là Già; Q (Queen) có hình hoàng hậu là Đầm: J (Joker) có
hình tên hề gọi là Bồi. Riêng lá A (Ace) là Xì hoặc Ách, tương đương với con số
1. Bài Tây có rất nhiều cách chơi khi du nhập Miền Nam, sau 1975 cũng xuất hiện
một số thuật ngữ lạ từ Miền Bắc như “tú lơ khơ” để chỉ bộ Bài Tây.
Từ
bộ bài 52 cây này người ta có nhiều cách chơi. “Xì tố” hay “xì phé” (poker) với
số người chơi từ 2 đến 6. Đầu tiên sẽ chia 2 lá trong đó có 1 con bài úp xấp để
các người chơi “tố” bằng cách đi tiền. Người chơi có thể “theo” hoặc “tố ngược”
với số tiền cao hơn ban đầu… ai có con bài lớn nhất sẽ thắng. “Binh xập xám”
(Chinese poker) lại cần đủ 4 người chơi, mỗi người 13 cây nên mới gọi theo tiếng
Tầu là “xập xám”.
Đó
là những món có tính cách sát phạt, ăn thua lớn nhưng trong ngày Tết nhiều gia
đình tổ chức những “sòng” mang ý nghĩa thuần túy của sự giải trí như “các tê”
hay “xì lác”. Ăn thua không là vấn đề quan trọng, nhưng cái chính là ông bà,
cha mẹ, con cái được dịp vui chơi trong những ngày xuân.
Một
ván “xì lác” diễn ra rất nhanh vì mỗi người chỉ được chia có hai cây bài và
tính điểm theo các con số trên cây bài. Riêng các lá có hình (K, Q, J) được
tính là 10 và A có thể tính là 1, hoặc 10. Cao nhất là 21 nút, nếu thấy “chưa đủ
tuổi” có thể bốc thêm nhưng coi chừng sẽ bị “oác” khi tổng số điểm vượt quá 21.
Tôi
nghĩ “các tê” là môn chơi hấp dẫn hơn vì đòi hỏi người chơi phải biết tính toán
cho hợp lý. Mỗi người được chia 6 quân bài, phải tính sao cho mình có ít nhất một
cây được ngửa, tức là có “tùng”, mới có quyền “chưng” hai cây cuối. Nếu cứ “thiệp”
(úp) hết coi như “tiêu tùng” sẽ bị loại khỏi cuộc chơi!
Giai
đoạn “chưng” cũng hồi hộp không kém. Nhiều khi “chưng” cây lớn để dành quyền làm
chủ nhưng cây úp lại nhỏ tí mà vẫn thắng. Cũng có khi 2 cây cuối cùng rất lớn
nhưng vẫn thua vì mình không có quyền “chưng”. Mỗi ván bài là cả một cuộc đấu
trí vừa hồi hộp vừa vui nhộn trong không khí ngày Tết!
Có
người quan niệm đánh bài là để “thử thời vận đầu năm”. Người ta tin vào quy luật
“đen tình, đỏ bạc” nên có thua bài thì cũng an ủi sẽ gặp vận hên, chẳng hạn như
trong chuyện tình cảm lứa đôi.
Hơn
1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 đã đem lại cho Sài Gòn nhiều
thú vui ngày Tết mới lạ. Chơi bài tam cúc là một thú vui ngày Tết khá phổ biến
trong các gia đình người Bắc di cư.
Bộ
bài gồm 32 lá mang hình Tướng, Sĩ, Tượng,
Xe, Pháo, Mã, Tốt… theo thứ tự của các quân cờ tướng và chia thành hai màu đen
và đỏ, trong đó các quân bài màu đỏ có giá trị cao hơn màu đen. Chẳng hạn “tướng
bà” đè “tướng ông”, tịnh (tượng) “điều” (đỏ) có quyền “ăn” tịnh đen…
Trong
một bộ bài chỉ có hai tướng, tiếp đó các quân khác có một đôi đỏ hoặc đôi đen
và 5 con tốt cũng phân thành 2 màu đen-đỏ. Ngôn ngữ trong Tam Cúc rất đặc biệt:
“Bộ đôi” là hai quân bài cùng màu, cùng tên như đôi Sĩ điều, đôi Pháo đen... “Bộ
ba” gồm ba quân Tướng-Sĩ-Tượng và Xe-Pháo-Mã cùng màu.
Khác
với bài Tứ Sắc, các quân bài được chia hết cho tất cả mọi người tham dự chiếu
bài. Người làm cái sẽ ra bài đầu tiên và gọi bài: "một cây",
"đôi cây" hay "ba cây"... được gọi thì những người chơi còn
lại sẽ tương ứng cho ra số cây bài của mình.
Các
cây bài được ra với mặt phải (mặt có ký hiệu quân) được giữ kín và úp xuống chiếu
bài. Khi mọi người đã ra đầy đủ bài thì người gọi bài sẽ lật bài đầu tiên rồi
theo thứ tự những người bên cạnh, ai có lá bài có giá trị lớn nhất thì người đó
được bài và giành cái. Tuy nhiên, tất cả mọi người được phép “chui” bài bằng
cách chịu thua và không lật bài lên để khỏi lộ bài.
“Tứ
tử” là bốn quân Tốt cùng màu, nếu ai có sẽ “Tứ
tử trình làng” để người khác tự động chui 4 cây bài. Trong trường hợp có đến
5 con Tốt sẽ được quyền “Ngũ tử cướp cái”.
Lại có quyền “Đi đêm” với người
khác khi gặp những quân bài quá xấu hoặc cần những cây mà mình không có.
Khi
cây bài bị thua, người ta dùng thuật ngữ “bị đè”… cho nên nếu giữ lại một cặp tốt
đen vào chung cuộc, gọi là “kết”, cũng có thể bị cặp tốt đỏ của đối phương “đè”
mà lại còn bị “đền”! Trong bối cảnh một ván bài tam cúc, Lê Đình Điểu có bài
thơ viết về mùa xuân thật dễ thương của đôi lứa:
“Tốt đỏ mà đè tốt đen
Kết nhất bội nhị làm
em phải đền.
Ứ ừ người ta đang đen
Không thèm chơi nữa
giả tiền tôi đây.
Ơ ơ bêu chửa cô này
Bị đè còn khóc giơ tay
đòi tiền
Có gan để kết tốt đen
Tất có gan để chịu đền
chứ sao?
“Ứ ừ , sao ở trên cao
Người ta thua mất sáu
hào hai xu!..”
…
“Mười năm đi dưới
trăng sao
Bây giờ dừng lại (nơi
nào đây em?)
Ván bài đời có tốt
đen
Trăm lần để kết phải
đền cả trăm!
Thơ ngây thua nhẵn mười
năm
Xòe tay thấy trắng
khóc thầm cả đêm
Ngày xưa em khóc, anh
đền
Bây giờ anh khóc ai đền
cho anh?
Tam
Cúc cũng đã đi vào thơ văn từ hồi tiền chiến. Nhà thơ Hồ Dzếnh tả người tình trong
bài thơ “Cỗ bài Tam Cúc”:
“Ngày Tết mải chơi
tam cúc
Không hay anh tới sau
lưng
Ghé lại gần anh mách
nước
Kết luôn xe pháo mã hồng.
Ô ván bài em đỏ quá
Đỏ như đôi má ngày
xuân
Em có ăn trầu đâu nhỉ?
Mà sao người thấy
bâng khuâng…”
Hơn
40 năm về trước, “Ly rượu mừng” đã
chúc cho một đất nước Việt Nam tự do, thanh bình:
“Chúc non sông hoà
bình, hoà bình
Ngày máu xương thôi
tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên
vui
Đợi anh về trong chén
tình đầy vơi…”
Nhưng
đến nay, những lời chúc đó vẫn chưa trọn vẹn. Một lần nữa, chúng ta cùng nâng
ly để chúc cho một Việt Nam với muôn người hạnh phúc chan hòa:
“Nhấc cao ly này
Hãy chúc ngày mai
sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn người hạnh phúc
chan hoà
Ước mơ hạnh phúc nơi
nơi
Hương thanh bình dâng
phơi phới”
***
Chú
thích:
[1]
Xem video clip “Ly rượu mừng”: https://www.youtube.com/watch?v=qaltRkQEtdg
[2]
Tham khảo bài viết “Sau 40 năm, ca khúc
'Ly rượu mừng' được hát Tết này”
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/lang-nhac/sau-40-nam-ca-khuc-ly-ruou-mung-duoc-hat-tet-nay-3341444.html
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét