Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2025

Tây Du Ký Xưa & Nay

Ngày xưa, thầy trò Đường Tăng phải vượt quãng đường 10 vạn 8 nghìn dặm với 81 kiếp nạn mới đến được Tây Trúc thỉnh chân kinh để đem về Trung Quốc. Ngày nay, sư Minh Tuệ mới chỉ qua 2 nước Lào và Thái, tính ra chỉ mới non nửa dặm trường để đến Ấn Độ nhưng đã trải qua nhiều biến cố!

Tại Thái Lan, tăng đoàn của sư Minh Tuệ tạm thời dừng lại chỉ vì nhóm người được mệnh danh là “hỗ trợ” (gồm các anh Báu, Giáp và Hùng) đã phải rời đoàn về Việt Nam giữa những vụ “lùm xùm” nổ ra với các thành viên trong đoàn. Có thể coi như đó là “kiếp nạn” đầu tiên mà đoàn phải vượt qua!

Chuyến đi của 5 thầy trò Đường Tăng diễn ra trong âm thầm và chỉ đến khi tác giả Ngô Thừa Ân viết Tây Du Ký vào năm 1590, hậu thế mới biết đến cuộc phiêu lưu mang tính cách thuần bí. Tiếp đến, vào năm 1986, chuyện thỉnh kinh trở thành một đề tài “hot” khi đạo diễn Dương Khiết (1929-2017) tạo một dấu ấn cho điện ảnh Trung Quốc.

Trong suốt 6 năm (từ 1982 đến 1988), nữ đạo diễn Dương Khiết đã dàn dựng bộ phim thần thoại đầu tiên Tây Du Ký trên màn ảnh nhỏ và ngày nay đã trở thành tác phẩm kinh điển gắn bó với tên tuổi của bà trong suốt 30 năm qua.

 

Phim “Tây Du Ký” (1986)

 

Đường Tăng tự giới thiệu: "Bần tăng từ Đại Đường đông thổ đến Tây Trúc thỉnh kinh" trong khi sư Minh Tuệ tuyên bố trong một bức thư ngày 23/11/2024: “… Con muốn đi đến đất nước Ấn Độ nơi đất Phật, con muốn đến đó để đảnh lễ 4 thánh tích, để tập học và tri ân đức Phật…”.

 

Đường Tăng

 

Trong Tây Du Ký, một trong những nhân vật trung tâm, được nhiều độc giả yêu mến nhất, chính là nhân vật Tôn Ngộ Không. "Đại Thánh" được sinh ra từ một tảng đá tại Hoa Quả Sơn, sở hữu pháp bảo là “cây gậy như ý”, cùng với phép thuật “thất thập nhị huyền công” và đã từng đại náo thiên cung...

Phàm là những ai từng đọc qua Tây Du Ký, đều biết rằng, người thầy đầu tiên đã truyền thụ 72 phép thần thông biến hóa cùng thuật “cân đẩu vân” cho Tôn Ngộ Không chính là Bồ Đề Tổ Sư, vị đại tiên, có pháp thuật và đạo hạnh vô cùng cao thâm, mà thân phận cũng vô cùng huyền bí.

Thân phận thực sự của Tôn Ngộ Không có thể liên quan đến Phật giáo, cũng chính là tiên thạch trước khi Tôn Ngộ Không ra đời. Trong vô số năm tiên thạch tồn tại, người duy nhất đặc biệt chú ý đến nó chính là Bồ Đề Tổ Sư.

Khi Tôn Ngộ Không vô tình muốn đi tìm quy luật trường sinh thì được con khỉ già ở Hoa Quả Sơn mách đi về phía nơi Bồ Đề Tổ Sư. Núi Hoa Quả và núi Linh Đài Phương Thốn sơn (nơi ngự của Bồ Đề Tổ Sư) cách xa nhau hàng ngàn dặm.

Những kiếp nạn mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu trong cuộc hành trình thỉnh kinh bao gồm những yêu quái, thậm chí một số yêu tinh còn muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ bằng cách biến thành những mỹ nhân.

Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên-Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa.

 

Tôn Ngộ Không

 

Trong đoạn cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát Vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật. Đây cũng được tính là một khổ nạn cho năm thầy trò.

Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua sông. Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì thế mà kinh về đến Trung Thổ không được toàn vẹn.

Trở lại với Tây Du Ký thời nay, dù có phần khiên cưỡng nhưng có thể coi Tôn Ngộ Không của ngày xưa chính là vai trò “hộ pháp” trong việc bảo vệ tăng đoàn ngày nay. Anh Báu đã đóng vai trò của Tôn Ngộ Không trong “công tác an ninh” cũng như trước sư đe doạ của “thế lực thù địch”.

 

Sư Minh Tuệ & Đoàn Văn Báu

 

Bộ ba Báu-Giáp-Hùng vốn là “người trần tục” nên không khỏi có nhiều mâu thuẫn với tăng đoàn, trong đó có những “sư trẻ” mang trong đầu óc “tự do, phóng khoáng”. Sư Minh Tuệ đứng trong vai trò của “người thứ ba” giữa Đạo và Đời. Sư cũng có những nhận xét phải nói là “ba phải” trong con mắt người trần tục!

Khi các anh hỗ trợ chia tay với đoàn, sư không níu kéo mà chỉ gói gọn trong câu “có cũng tốt đẹp, không có cũng tốt đẹp”, đúng theo quan niệm của người đã buông xả tất cả. Người vui, kẻ buồn. Người hoang mang, kẻ lo lắng. Thậm chí có người còn giận, và “ghét” thầy. Đúng là “mọi việc đều tuỳ duyên”!

Trong khi tình hình đang rối ren thì vai trò của anh Theerawat (một tỷ phú Việt kiều ở Thái Lan đã hỗ trợ đoàn ngay từ ngày đầu đến Thái) bỗng trở nên đáng chú ý. Anh khiến người ta liên tưởng đến Bạch mã Hoàng tử trong Tây Du Ký xưa với bộ trang phục màu trắng.

Trong một video clip trao đổi với sư Minh Tuệ, Theerawat tiết lộ việc lo visa thì phải có hộ chiếu, nên con trai anh cầm hộ chiếu để đoàn vào Myanmar, trong khi Báu bị cho là giữ visa của đoàn “làm con tin”! Anh còn cho biết khi thầy đến Ấn Độ, anh sẽ là một “youtuber” để quay những cảnh làm thông tin!

 

Báu-Giáp-Hùng chia tay rời đoàn với anh Theerawat

 

Một số học giả cho rằng Tây Du Ký châm biếm sự suy yếu của chính quyền phong kiến Trung Hoa thời đó. Nhiều nhà bình luận khác cho rằng hình ảnh kết hợp của thầy trò Tam Tạng lại ẩn giấu một khái niệm sâu sắc hơn nhiều, đó là về "tâm", hay còn gọi là bản chất con người. Từ Đường Tam Tạng đến con ngựa đều biểu trưng cho một đặc tính thường thấy của "tâm", 5 thầy trò chính là 5 yếu tố cấu thành bản chất đó.

Đường Tăng tượng trưng cho những tình cảm con người: lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ. Nhưng giàu tình cảm thì cũng đi liền với sự u mê, nhu nhược, ba phải.

Một trăm lần Tề Thiên cản: "Yêu ma đấy, chớ có cứu". Và đủ một trăm lần Đường Tăng cứ cứu, để rồi mắc nạn vương tai. Đó là vì sự nhận thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng gọi sáng suốt của lý trí. Đường Tăng cứ lặp đi lặp lại những sai lầm của mình và không có sai lầm nào giống sai lầm nào.

Tôn Ngộ Không tượng trưng cho trí tuệ. Lý trí phải dẫn dắt, phải soi đường cho hành động. Lý trí ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối, chẳng chịu thua kém ai. Cho nên Tề Thiên coi mình ngang với Trời và muốn lên trời xuống biển, quậy phá mọi nơi, không chút đắn đo ngần ngại.

Cũng vì thế, Tề Thiên phải đội “vòng kim cô”. Khi về tới chùa Lôi Âm, thành Phật rồi, không cần cởi, vòng kim cô tự lúc nào đã biến mất. Cái trí con người khi đã thuần dưỡng thì không cần kỷ luật nó vẫn vận động đúng.

Trư Bát Giới là tính tham lam và dục vọng. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình. Bát Giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. Vì thế, mà pháp danh của Bát Giới là Ngộ Năng.

 

Trư Bát Giới

 

Sa Tăng là tính cần cù, nhẫn nại. Sa Tăng phải nhọc nhằn gánh hành lý là lẽ ấy. Tề Thiên mấy bận giận Thầy, mấy phen phải quay về Thủy Liêm Động; Bát Giới đã trăm lần ngàn lượt đòi chia của, rồi mạnh ai đường nấy đi. Chỉ riêng có Sa Tăng suốt cuộc hành trình vẫn một lòng một dạ quảy hành trang tiến tới. Không một lời thoái lui, không một lòng biến đổi.

Sa Tăng là hình ảnh của tinh tiến, trì thủ, tâm bất thoái chuyển. Dù khó khăn đến đâu, đã quyết rồi thì cứ đi tới. Khí giới của Sa Tăng vì thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén nhọn, để dễ dàng ghim chặt vào mục tiêu. Pháp danh của Sa Tăng là Ngộ Tịnh: tịnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tịnh để mà kham nhẫn, chịu đựng.

 

Sa Tăng

 

Bạch Long Mã là con ngựa tượng trưng cho xác thân. Con người đi tìm Chân lý, tìm Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh. Không có ngựa tốt thì Đường tăng không tới được Lôi Âm. Người mà thể xác bệnh hoạn, tinh thần ươn hèn thì không thể chiến đấu để đạt tới Chân lý, đạt Đạo.

Bạch Long Mã là một người quân tử, khôi ngô tuấn tú song vì quá mê tửu sắc nên khi bị người tình phản bội đã nông nổi đập nát báu vật mà Ngọc Hoàng Thượng đế ban cho, chi tiết này tượng trưng cho những hành vi sai lầm mà con người gây ra và trả giá thông qua xác thân của mình.

 

Bạch Long Mã và Đường Tăng

 

Ngoài ra có những chi tiết mang ẩn ý sâu xa, nếu không am hiểu kĩ thì dễ gây hiểu nhầm. Ví dụ, chi tiết A Nan và Ca Diếp đòi Đường Tăng phải dâng bát vàng mới truyền kinh thư khiến nhiều người hiểu nghĩ rằng A Nan và Ca Diếp đòi… hối lộ. Thực ra, làm gì có chuyện vòi vĩnh của đút lót ở cửa Phật.

Cũng nên chú ý đến lời nói của A Nan và Ca Diếp: "Hai vị tôn giả cười nói: Hà Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất". Đạo pháp cao thâm thì không thể truyền thụ dễ dàng (đạo pháp bất khinh truyền), cho nên kẻ học đạo, muốn thụ pháp thì phải biết đánh đổi.

Dâng bát vàng chính là mang ý nghĩa đánh đổi. Nếu dễ dàng truyền đạo pháp cho người không xứng đáng, không muốn từ bỏ danh lợi thế tục, chẳng những kẻ ấy không thể hoằng dương được chính pháp mà còn khiến cho đạo pháp suy tàn. Như thế, đời sau sẽ không còn hưởng được pháp thực nữa, nghĩa là tâm linh con người sẽ "đói". Ý nghĩa sâu xa trong câu nói của A Nan - Ca Diếp là như vậy.

Ngoài ra còn một ý nghĩa khi phải để lại bát vàng lúc đã tới được cảnh giới Chân Như, gặp được Phật Như Lai, đó là: cái bát vàng tượng trưng cho sự khất thực, truyền Pháp, hóa Duyên... nay phải bỏ lại vì công quả đã viên mãn, vượt qua được các kiếp nạn. Bát vàng tượng trưng cho công cụ giúp hành giả vượt qua biển khổ, khi đã tới được bến Giác thì cũng không còn cần thiết nữa.

***

Thật là một chuyện ngẫu nhiên khi Tây Du Ký năm xưa của Trung Quốc lại một lần nữa xảy ra với người Việt.

Tuy nhiên, Tây Du Ký “tân thời” mới chỉ mới đi hết non nửa chặng bộ hành và chặng đường phía trước chắc chắn còn nhiều gian nan cũng như trở ngại trước khi tăng đoàn đến được Vùng Đất Phật ở Ấn Độ.

Kính chúc đoàn bộ hành của sư Minh Tuệ… “chân cứng, đá mềm”.


*** 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

:) :( :)) :(( =))

Popular posts