Ngày
xưa, thuở còn dùng bút lông, cha ông chúng ta thường có lệ khai bút đầu năm mới,
còn được gọi là “Tân xuân khai bút” hay “Khai bút tân xuân”. Vào thời chữ Nho
thịnh hành, các cụ có thể viết đôi ba chữ trên giấy Hồng Điều hoặc Hoa Tiên, chẳng
hạn như “Cung chúc tân xuân”, “Tân Xuân Đại Cát” hay đôi khi chỉ một
chữ như “Nhẫn”, “Tâm” hoặc “Phúc”, “Lộc”, “Thọ”…
“Tân xuân khai bút”
Phạm
Phú Thứ [1] viết bài “Tân xuân khai bút”
vào ngày đầu xuân Tết Tân Hợi 1851 khi ông bị đày đi cắt cỏ ngựa ở trạm Thừa
Nông vì tội "phạm thượng", cũng chỉ vì dám khuyên vua Tự Đức siêng
năng chăm lo việc triều đình. Nguyên bản bằng chữ Hán được ghi lại trong phần
chú thích và dưới đây là bản dịch của Phạm Đình Nhân:
“Đêm trước sông hồ ngập
gió đông
Khói lam quyện khóm
trúc bên sông
Khuyên vua núi Ngự
hai xuân trọn
Làm lính Hải Vân một
trạm Nông
Mưa móc rộng ban ân
nghĩa trọng
Càn khôn còn giữ một
thân nồng
Đầu năm ghi lại đôi lời
chúc
Khai bút đề xuân mượn
giấy hồng”
Đến
thời chữ Quốc ngữ, cụ Tam nguyên Yên Đổ [2] còn khai bút bằng một bài thơ ẩn chứa
một nỗi lòng của giới nho học trước sự suy vong của văn hóa Khổng Mạnh:
“Tuổi thêm, thêm được
tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi, lẻ
có ba
Sách vở ích gì cho tuổi
ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn
thân già!
Xuân về, ngày loạn
còn lơ láo,
Người gặp, khi cùng
những ngẩn ngơ!
Lẩn thẩn lấy chi đền
tấc bóng?
Sao con đàn hát vẫn
say sưa”.
Trải
qua nhiều biến động của thời gian, thư pháp tiếng Việt xuất hiện để thay cho chữ
Nho đã đi vào quên lãng. Tuy nhiên, thư pháp Việt vẫn giữ truyền thống bút
lông, mực tàu và được thực hiện trên nhiều chất liệu như gỗ, đá, mành tre,
tranh thêu ngoài phương tiện chính là giấy.
Thư pháp trên tranh thêu
Thời
bây giờ không còn dùng bút lông. Các loại bút khác như bút máy, bút nguyên tử
cũng đang từ từ cáo chung để nhường cho bàn phím. Thế cho nên khái niệm khai
bút phải thay đổi bằng “khai… bàn phím
máy tính”.
Chúng
ta đang ở vào thời đại kỹ thuật số, việc đầu năm “khai bàn phím” cũng có nhiều
thay đổi nhưng tinh thần của việc “khai bút” vẫn vậy: ngoài việc cầu phúc cho bản
thân, gia đình còn là những khắc khoải trong cộng đồng trước vận nước ngày một xấu
đi.
Hai
câu thơ xưa của Nguyễn Khuyến, “Lẩn thẩn
lấy chi đền tấc bóng? Sao con đàn hát vẫn say sưa”, cũng là tâm sự của một
số người thời nay, trăn trở trước thời cuộc. Xã hội này phải chăng gồm toàn những
“con hát”, từ người công dân cho đến
quan chức.
Phường
tuồng từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài! Quan thì diễn trên sân khấu theo một
kịch bản đã viết trước, chỉ cần thuộc tuồng và diễn thật hay, nói thật giỏi.
Dân thì ngồi xem trước sân khấu, kẻ thì gật gù tán thưởng, người thì ngao ngán
khi phải miễn cưỡng ngồi xem.
Có
những khán giả chỉ mong cho vở tuồng kết thúc sớm và hy vọng một luồng gió mới
để thay đổi cuộc sống hàng ngày. Có những người lại mong được xem tiếp một vở
tuồng khác hay hơn với những tình tiết “hỉ-nộ-ái-ố” hấp dẫn hơn. Lại có những ý
kiến “phản động”… dẹp hết tuồng hát, cho đào kép về vườn…
Đại sứ Hoa Kỳ, Ted Osius, học khai bút đầu năm Bính Thân
tại Hà Nội
Khai
bút bàn phím năm nay tôi cũng tâm đắc với câu thơ của Phạm Phú Thứ: “Mưa móc rộng ban ân nghĩa trọng… Càn khôn
còn giữ một thân nồng”. Sử sách nhà Nguyễn có ghi:
“Khi Phạm Phú Thứ ở Hải
Đông, hạt Quảng Nam, luôn năm đói kém, mà việc tuần phòng ở ngoài biển thì gạo
cấm khá nghiêm, bèn thương lượng tạm bỏ điều cấm, hoặc quyền nghi cho thuyền chốn
người Thanh, người Kinh chở gạo Bắc về Quảng Nam phân tán phát mại. Ông còn bỏ
liêm bổng ra mua 1.000 phương gạo gửi về chia ra phát chẩn cho dân đói ở huyện
hạt, nhân đó cứu sống được nhiều người, đến nay người vẫn nhớ"....
Theo
nhiều sử gia, Phạm Phú Thứ là một nhà nho khi ra làm quan nhưng ông luôn hành xử
một cách thanh liêm, cương trực nên được giới sĩ phu miền Trung hết lòng ngưỡng
mộ. Xuất thân là một học trò nghèo, ông luôn chia sẻ nỗi vui buồn của ngư dân
trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Câu đối Tết
Bài
học về tính thanh liêm, thương dân và vị tha của Phạm Phú Thứ đến bây giờ ít ai
còn nhớ. Vẫn biết nhắc lại Phạm Phú Thứ với đám quan quyền ngày nay chắc cũng
chỉ là… nước đổ lá môn. Tuy vậy, vẫn phải nhắc. Đời người hữu hạn, chỉ có nhân
đức mới trường tồn trong cái càn khôn của vũ trụ.
Đó
chỉ là những tiếng vang giữa sa mạc. Biết đâu đấy, tiếng vang có thể lọt vào
tai của vài người, chỉ vài người không hơn, không kém. Đó chỉ là một hạt cát giữa
sa mạc mông mênh nhưng hạt cát đó nếu lọt vào giầy của ai đó chắc cũng khiến họ
dừng bước xem cái gì đã vướng dưới chân.
Khai
bút bàn phím đã hơi dài vì luồng tư tưởng của người viết cứ lan man đủ chuyện.
Ngày xuân đã qua đi, chúng ta lại bắt đầu những ngày… thường. Một ngày như mọi
ngày…
***
Chú
thích:
[1]
Phạm Phú Thứ (1821–1882) là một đại thần triều nhà Nguyễn, và là một trong số
người có quan điểm canh tân nước Việt Nam trong những năm nửa cuối thế kỷ 19. Đầu
năm 1863, sau khi vua Tự Đức xét trong mấy điều khoản trong Hòa ước Nhâm Tuất
còn có chỗ chưa thỏa, liền sung Phạm Phú Thứ làm Khâm sai vào ngay Gia Định, hội
với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp để đàm phán với quan soái Pháp và quan đại
thần nước Y Pha Nho (Tây Ban Nha).
Không
hoàn thành nhiệm vụ, ông phải bị giáng một cấp. Tháng 5/1863, ông được cử làm
Phó sứ, cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ Ngụy Khắc Đản, sang Pháp và
Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Tháng 12/1881,
Tây Ban Nha tặng khánh vàng hạng nhất, đồng thời gửi tặng khánh vàng cho các
quan đại thần là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Hoàng Diệu và Phạm Phú Thứ.
Năm
Tự Đức thứ 35 (Nhâm Ngọ, 1882), Phạm Phú Thứ mất tại quê nhà "giữa những
ngày u ám nhất của vận mệnh chế độ phong kiến nhà Nguyễn", thọ 61 tuổi. Nghe
tin, vua Tự Đức thương tiếc ban dụ, trong đó có đoạn:
"Phú Thứ kinh lịch
nhiều khó nhọc, đi đông sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối.
Về việc trông coi Thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối,
sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân, gian phỉ chứa ác ở Quảng Yên, Thứ tới
kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là
công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu. Gia ơn cho truy phục nguyên hàm Thự Hiệp
biện Đại học sĩ và chuẩn cho thực thụ, cũng sắc cho địa phương tới tế một tuần".
Sinh
thời, ông thường giao thiệp với các thi nhân có tiếng lúc bấy giờ như anh em
Tùng Thiện Vương, Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Bùi Văn Dị… Dưới đây là
nguyên tác bài “Tân xuân khai bút”:
新春開筆
東風昨夜入江潭,
竹外晴流倦曉藍。
王闕春連屏嶺北,
枌鄉天在海雲南。
容身直是乾坤大,
殷節猶知雨露甘。
染翰喜捻新歲月,
紅箋題處起春蠶。
Tân xuân khai bút
“Đông phong tạc dạ nhập giang đàm,
Trúc ngoại tình lưu quyện hiểu lam.
Vương khuyết xuân liên Bình lĩnh bắc,
Phần hương thiên tại Hải Vân nam.
Dung thân trực thị càn khôn đại,
Ân tiết do tri vũ lộ cam.
Nhiễm hàn hý niệm tân tuế nguyệt,
Hồng tiên đề xứ khởi xuân tàm”.
[2]
Nguyễn Khuyến (1835-1909), tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi.
Năm 1865, ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám
và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa
(chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn).
Đến
năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến
thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Năm
1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877,
ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về
Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo
quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.
Nguyễn
Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là
thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn
Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc
sống và gắn bó với thiên nhiên.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Chính thân mến,
Trả lờiXóaTôi đọc chậm rãi đến hết bài "Tân Xuân khai...bàn phím". Trong khi đọc, tôi đã nhất quyết đọc kỹ lưỡng cho đến hết bài và tự bảo dù chuông ĐT có reo cũng mặc kệ, cứ để máy nhắn tin ghi bởi vì tôi biết bài nào anh viết cũng lôi cuốn tôi với lời văn giản dị nhưng rất thâm trầm hay đầy những nét trào lộng và nhất là rất thường có các chú thích (tôi dùng "chú thích" với nghĩa là reference, có đúng không?) chỉ cho người đọc những nguồn thông tin có giá trị liên quan đến nội dung của bài viết. Tôi rất mong trước khi anh viết "Thời Kỳ Xuống Lỗ" anh sẽ cho in tất cả những bài viết của anh thành sách để một ngày nào đó Bộ Giáo Dục Thứ Thiệt sẽ cho dùng làm sách giáo khoa để dạy sinh viên, học sinh viết luận văn.
Bùi Dương Chi. Thầy giáo tiếng Anh. Trung Học Ban Mê Thuột. 1963-74. Giáo viên Anh Văn là Ngôn Ngữ thú Hai của Khu Học Chánh Fairfax, bang Virginia.1976-82. Giám Đốc Chương Trình Học Kỳ Hải Ngoại ở VN của Trường School for International Training, Brattleboro, Bang Vermont. 1992-2000.
Xin cám ơn những nhận xét của thầy. Riêng về việc ra sách, cuốn "Hồi ức Ban Mê" (http://chinhhoiuc.blogspot.com/2014/11/hoi-uc-ban-me.html) được xuất bản tại Hoa Kỳ là do sự tài trợ của các bạn đồng môn nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường Trung học Ban Mê Thuột.. còn "Hồi ức một đời người" vì quá nhiều bài viết nên chắc không thể nào xuất bản được...
Xóa