Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2016

Hối lộ thần thánh thời @

"Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương…”

Những câu thơ của Nguyễn Nhược Pháp trong bài Chùa Hương thể hiện ý thơ “tự sự” của một cô gái ngây thơ, trong trắng, chưa “lấm bụi trần”. Thơ làm từ năm 1935, xuất hiện trong tập thơ Ngày Xưa, với những lời ước thật… nên thơ:

“Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng”

Hơn 80 năm sau, chùa Hương với động Hương Tích thơ mộng của thời Nguyễn Nhược Pháp đã “biến mất” để thay vào đó là những cảnh bát nháo của thời @. Lễ hội Chùa Hương, diễn ra từ ngày 6 Tết kéo dài hết tháng 3 âm lịch, là dịp du xuân mang tính cách “tâm linh” của người Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.

Đâu còn những cảnh chùa Hương thơ mộng của cô gái ngây thơ ngày nào và thay vào đó là những hoạt cảnh rất “đời thường” được pha trộn giữa tín ngưỡng và mê tín, giữa trần tục và linh thiêng của “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”?


Chùa Hương thời @

Theo Vietnamnet, “Trong số 7.966 lễ hội lớn nhỏ rải rác khắp mọi miền Tổ quốc, theo kết quả thống kê năm 2009, miền Bắc chiếm đa số. Hầu hết các lễ hội đều diễn ra vào mùa xuân, nhiều nhất là vào tháng Giêng”.

Ngoài những lễ hội mang tính cách “thuần túy văn hóa vùng miền”, người ta còn nhắc đến các lễ hội lai căng, bát nháo, vô trật tự, dã man, bạo lực… như “Bắt lợn ông cầu” (Mùng 5 Tết tại Phú Thọ), “Đả cầu cướp phết” (Mùng 7 Tết tại Vĩnh Phúc), “Lễ hội chém lợn” (Bắc Ninh)…

“Lễ hội chém lợn”, làng Ném Thượng, bắt nguồn từ một truyền thuyết xưa: tướng Đoàn Thượng khi đánh trận chạy đến vùng núi Ném Thượng đồn trú đã chém lợn rừng nuôi quân. Từ đó, hàng năm người dân mở hội chém lợn để tưởng nhớ người có công khai khẩn đất đai.

Tại lễ hội này, con heo bị chém trước sự hiện diện “thích thú” của hàng nghìn người. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đã kêu gọi người dân làng Ném Thượng không nên duy trì tục chém lợn vì cảnh tượng thật “dã man”… nhưng không được dân làng hưởng ứng (!).

Tại lễ hội này năm 2015, dù Tổ chức Động vật châu Á lên tiếng phản đối mạnh mẽ và các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam can thiệp nhưng các cụ bô lão làng Ném Thượng vẫn kiên quyết khai đao chém lợn ngay giữa sân đình.

Năm 2016, kịch bản chém lợn có phần khác đi. Đúng giờ ngọ, tiếng kêu eng éc rất lớn của hai “ông ỉn” cất lên và bị hai “đao thủ” âm thầm hành quyết trong một địa điểm được vây kín. Không còn cảnh “máu me ghê rợn” trước mặt khán giả như trước. Thay vào đó là những vệt máu còn đọng lại trên thanh đao sau khi hành quyết.

Có người tự hỏi, về ý nghĩa, tục lệ này muốn nhắc lại một giai đoạn hào hùng của lịch sử… nhưng về hình thức, có nhất thiết phải nhắc lại từng chi tiết chém lợn với đầm đìa máu me, dù máu đó là của động vật, không phải từ con người?

Theo nhà Phật, cái tâm “ác” luôn được thể hiện qua những hành động “ác”. Người Việt chúng ta có tâm “thiện” hay “ác”? Hình như cái tâm đó cũng bị ảnh hưởng bởi môi trường hiện tại trong một đất nước được mô tả là “hòa bình” sau một cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm?

Rõ ràng là ngày nay cái “ác” ngày một lấn át cái “thiện”. Người ta sẵng sàng đổ máu, thậm chí đến độ phải hy sinh mạng sống của mình chỉ vì chuyện “không đâu”. Chỉ một cái nhìn “đểu”, một “va quẹt” trên đường cũng đủ làm “ngòi nổ” cho một cuộc ẩu đả, đâm chém mất hẳn tính “người”!

Lễ hội Chém Lợn năm 2016

Không riêng gì Miền Bắc, tại Miền Nam ngày nay cũng có hiện tượng lẫn lộn giữa tín ngưỡng và mê tín. Khu “du lịch tâm linh” Quan âm Phật đài ở ven biển thành phố Bạc Liêu là một ví dụ điển hình.  

Tại đây có tượng Bồ tát Quan Thế âm cao 11 m đứng uy nghi nhìn ra biển Đông được người dân miền Tây gọi là "Mẹ Nam Hải". Dưới chân tượng là một không gian khoáng đãng với sân rộng lát gạch bông rất đẹp mắt.

Ngày Tết, Phật tử từ các nơi đổ về đây hành hương, đó là điều “thiện” đáng khuyến khích. Tuy nhiên, khoảng sân rộng dưới chân tượng đã biến thành một bàn thờ lộ thiên, ngổn ngang những đồ cúng lễ. Trong số khách hành hương hầu như mỗi người có một “bàn thờ riêng” trải bằng giấy báo, bịch nylon và “bát nhang” chính là trái cây cúng hoặc chai nước… 

Cảnh tượng bát nháo trên sân chẳng khác nào một phiên chợ. Người ta đi lại và nếu không chú ý sẽ dẫm lên “bàn thờ” của người khác. Có người ngao ngán, lắc đầu trước cảnh “chợ-chùa”, chợ họp để “buôn thần, bán thánh”. Rõ ràng là Phật Bà Quan Âm ở trên cao nhìn xuống cũng thấy thương cho chúng sinh đang ngụp lặn trong bể khổ…

Ngổn ngang… chợ - chùa!

Kark Marx nổi tiếng với câu nói “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Khi ông có nhận xét như vậy, tôi nghĩ, ông không thể hình dung được tại một nước xa xôi như Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay “tín ngưỡng” nói chung và “mê tín” nói riêng lại có thể có những “biến tướng” qua hình thức “hối lộ thần, thánh” của cả quan chức lẫn người dân!

Bằng chứng là tại những ngôi chùa vốn trang nghiêm người ta nhét cả tiền lẻ vào tay tượng Phật, tượng La Hán… ngay cả đến con rùa đội bia đá tiến sĩ trong Văn Miếu cũng bị “mua chuộc” bằng những đồng tiền lẻ. Rõ ràng là sự tôn sùng các biểu tượng linh thiêng vẫn được giữ nguyên nhưng “cái tôi” của người “hối lộ” vẫn nổi bật.

Cần tiền thì cúng tiền, khấn vái to nhỏ những điều mình ước muốn và hứa hẹn sẽ trở lại “tạ lễ” khi điều ước của mình thành sự thật. Người ta mù quáng tin vào câu tục ngữ “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.

Nếu những điều “linh thiêng” được “mua chuộc” bằng quà “hối lộ”, tôi nghĩ, những nhân vật linh thiêng đó chắc sẽ lắc đầu ngao ngán trước sự “biến dạng” của tín ngưỡng sang “mê tín”. Đạo nào cũng chỉ ra một “con đường” để các tín đồ đi theo, không bao giờ khuyến khích tín đồ “hối lộ” để được tốt hơn cho bản thân mình.

Mọi người đều bình đẳng trước tôn giáo. Anh thắp 3 nén hương, tôi chỉ thắp có một nén không có nghĩa là tôi không được hưởng phúc bằng anh. Chị khấn vái thật to cũng không có nghĩa là những lời chị thốt ra sẽ được Trời Phật chứng giám. Tôi khấn thầm trong bụng vì tôi mong những đều mình ấp ủ được chính tôi nghe thấy, không cần những người chung quanh biết đến…  

Có Trời Phật nào chứng giám?

Quy luật thị trường là “Có cầu thì ắt có cung”. Chưa bao giờ nghề sản xuất “hàng mã” lại làm ăn khấm khá như ngày nay. Tôi thấy mọi người dùng tiền thật để mua hàng giả nhiều hơn ngày xưa!

Toàn bằng giấy! Người ta làm những căn biệt thự nguy nga; những hình nhân xinh đẹp; những chiếc BMW, Lexus, Lamborghini bóng lộn… rồi vàng ròng còn được làm thành từng thỏi, tiền đô la cả xấp, toàn giấy $100…

Tất cả những món quà đó đều được đốt cho người cõi âm. Người dương thế thích món nào thì đốt tặng cho người khuất mặt món đó. Âu cũng một hình thức “hối lộ” tình cảm của người sống với người chết. Biết đâu chừng, những món  món quà đó lại được người quá cố dùng làm của “hối lộ” cho kẻ khác ở trên thiên đàng hay dưới địa ngục (?).

Đám ma ngày nay mỗi một khi diễn qua phố luôn để lại sau lưng không phải là sự tiếc thương của mọi người mà chỉ là tiền bạc, vàng mã rải trên khắp nẻo đường dẫn đến nghĩa trang. Cũng lại là một hình “thức hối lộ” y như trên trần thế: rải tiền trên đường với cảnh sát giao thông để mua lấy hai chữ “bình an” cho cuộc hành trình về bên kia thế giới!

Hóa ra người ta, vô hình chung, đã làm phiền đến cộng đồng khi xả rác một cách công khai trên đường phố!  Người ta đã đốt, đã phung phí tiền thật qua hàng mã để trước là “hối lộ” sau là giúp người thân ở thế giới bên kia được sung sướng.

“Sung sướng” chỉ là một khái niện chủ quan của người sống. Không thể nào chuyển sự sung sướng cho người đã khuất. Có chăng chỉ là niềm sung sướng của người sống đã bày tỏ sự thương nhớ của mình… theo cách của mình!

Điều khẳng định là tục lệ đốt vàng mã không có liên quan gì đến tinh thần của đạo Phật vì lẽ đơn giản đạo Phật là con đường của “giác ngộ” chứ không mê tín. Thượng tọa Thích Huệ Phước (Huế) cho rằng tục đốt vàng mã không phải là văn hóa dân tộc Việt Nam và càng không phù hợp với tinh thần Phật giáo.

Trong một xã hội có sự suy thoái về đạo đức, rất dễ bị đánh đồng giữa tín ngưỡng và mê tín. Điều này càng rõ nét ở miền Bắc trong suốt giai đoạn từ 1954-1975 theo chủ nghĩa duy vật, cán bộ thường khai lý lịch trong phần tôn giáo là “không” cho phù hợp với đường lối của Đảng [3].

Chính những thành phần này trong giai đoạn “hậu-1975” lại là những người có biểu hiện tín ngưỡng và mê tín một cách thái quá. Người ta thường nói “Bảo hoàng hơn Vua” là vậy. 
  
Bao giờ mới hết những cảnh này?
(Cúng Phật tại chùa với vàng mã mê tín)


***

Chú thích:


[2] Nguyên văn của Karl Marx: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sanh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái không có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.” Lời mở đầu trong “Phê phán triết học pháp quyền của Heghen”, 1843-1844, NXB Sự Thật Hà Nội, 1962, trang 5-7.

[3] Ở thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ miền Bắc nghiêng hẳn về duy vật nhưng sau 1975 lại quay phắt 180 độ sang duy tâm, một bước ngoặt “khủng khiếp” từ tín ngưỡng sang mê tín một cách mù quáng. Lễ hội “Khai ấn đền Trần” tại Nam Định với sự tham dự của các viên chức nhà nước là một ví dụ điển hình.

Theo Nguyễn Xuân Diện, “… Nhà nước đã tự đánh mất đi cái vai trò của mình trong việc giáo dục truyền thống, về những trang sử vẻ vang hào hùng của đời nhà Trần… Người ta nhìn vào lễ hội đền Trần chỉ thấy một sự lộn xộn, một sự quảng bá cho một niềm tin mê lầm, rằng ấn đền Trần có thể mang lại cho người ta sự thăng quan tiến chức.”

Tham khảo thêm về Lễ hội này tại http://xuandienhannom.blogspot.com/2011/12/le-khai-en-tran-linh-thieng-hay-lua-loc.html.


***

1 nhận xét:

  1. Tham khảo thêm về lễ hội Khai ấn đền Trần tại http://miscellaneous-land.over-blog.net/article-khai-n-n-tr-n-phat-n-d-m-c-u-may-u-n-m-98422659.html

    Trả lờiXóa

Popular posts