(Tiếp theo)
“Khi tôi còn đang suy
nghĩ để hình thành cuốn tiểu thuyết “The Sympathizer”, tôi nhận thấy vẫn chưa
có cuốn sách nào trực tiếp đối điện với lịch sử cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam từ
góc nhìn của người Mỹ gốc Việt”
Nguyễn Thanh Việt
Nguyễn Thanh Việt trong một cuộc phỏng vấn
Theo
tác giả “The
Sympathizer”, văn chương của người
Mỹ gốc Việt chỉ thường tập trung vào những kinh nghiệm sống của người tị nạn
khi họ đến Mỹ. Điều quan trọng hơn cả, anh muốn phê phán vai trò của người Mỹ ở
Việt Nam thay vì lặp lại thái độ thường thấy của những người Mỹ gốc Việt, đó là
hoặc biết ơn vì được người Mỹ giải cứu, hoặc hòa giải, không đối đầu trực tiếp
trong văn chương.
Trong
những tác phẩm đó, “không có nhiều sự thịnh
nộ… và nếu có, thì cơn giận dữ hay thịnh nộ lại nhắm vào những kẻ không biết đất
nước nguồn cội ở châu Á, gia đình châu Á, hay những kẻ gia trưởng châu Á”.
Đó là lý do tại sao trong “The
Sympathizer”, qua những suy nghĩ của viên sĩ quan nằm vùng,
có những phê phán về văn hóa Mỹ và nước Mỹ.
Nguyễn
Thanh Việt là một tác giả trẻ. Trẻ với tuổi đời 45, trẻ vì anh đến Hoa Kỳ từ lúc
mới 4 tuổi và, quan trọng hơn hết, anh trẻ vì thuộc vào thế hệ hệ thứ hai của
người gốc Việt tại Mỹ. Đó mới thực sự là “trẻ”, hiểu theo nghĩa
một nhà văn thuộc nhóm thiểu số “da màu” viết cho người đọc đa số là “da trắng”
về Việt Nam nhưng lại không theo “lối mòn” của các nhà văn trước anh.
Trong
một bài viết trên “New York Times”,
Nguyễn Thanh Việt đã từng xác định khi viết “The
Sympathizer” anh có tham vọng “lấp đầy
một khoảng trống trong văn chương”, anh cố gắng “viết cho những người từ trước đến giờ không có tiếng nói hoặc ít có cơ
hội lên tiếng” để giúp độc giả có một cái nhìn khác về Việt Nam.Tham vọng
tưởng chừng như xa vời đó bỗng trở thành thực tế khi anh đã chen chân vào thế
giới văn chương Hoa Kỳ.
Thật
ra cũng đã có nhiều nhà văn người Mỹ gốc Việt viết trực tiếp bằng tiếng Anh hay
qua những tác phẩm được chuyển ngữ sang tiếng Anh. Thế hệ thứ nhất của người Việt
tại Mỹ đã có những cây bút như Lệ Lý Hayslip hay Mai Elliot, họ là những người đã
trực tiếp trải nghiệm cuộc
chiến.
Phùng
Thị Lệ Lý, sinh năm 1949 tại Đà Nẵng, nổi tiếng với hai tác phẩm “When Heaven and Earth Changed Places”
(Khi Đất Trời đảo lộn) và “Child of War,
Woman of Peace” (Đứa trẻ thời chiến, người phụ nữ thời bình). Bà vừa là nhà
văn vừa là người sáng lập các tổ chức phi chính phủ - “East Meets West
Foundation” (Đông Tây Hội Ngộ) và “Global Village Foundation” (Làng Toàn Cầu).
Cuộc
đời cơ cực của cô gái Miền Trung có những nét hao hao giống như nhân vật chính
trong “The Sympathizer”, cả hai đều là
những cảm tình viên của Hà Nội nhưng Lệ Lý đã bị coi là kẻ phản bội khi mới 15
tuổi.
Cô
theo mẹ bỏ trốn vào Sài Gòn và giúp việc cho một gia đình giàu có nhưng rồi
lại phải trở về Đà Nẵng khi bị phát hiện mang thai với ông chủ. Cô cùng mẹ quay
trở lại miền Trung, nuôi con nhỏ bằng cách bán chợ trời, giao thuốc phiện và kể
cả việc làm gái mại dâm.
Cuộc
đời trôi nổi cùng cực của Lý Lệ chấm dứt vào năm 1969, khi bà lập gia đình với
một kỹ sư người Mỹ. Năm 1970, bà theo chồng về Mỹ định cư. Năm 1973, khi chồng
mất, bà lập gia đình với người thứ hai có 2 người con. Người chồng thứ nhì của
bà lại chết trong một tai nạn giao thông năm 1982.
Chính
cuộc đời chìm mổi của Lệ Lý Hayslip trong suốt chiều dài cuộc chiến tại Việt
Nam đã giúp tác giả viết một cách thoải mái tại Hoa Kỳ. Bà đã trở thành một nhà
văn có sức thu hút người đọc vốn bị ám ảnh vì “hội chứng Việt Nam” tại Mỹ.
Theo
New York Times, tác phẩm “When Heaven and Earth Changed Places” được
xếp vào loại Best Seller, được dịch ra 17 ngôn ngữ và đã được đạo diễn Oliver
Stone dựng thành phim “Trời và Đất”
năm 1993. Đó cũng là một thành tích sáng chói của một cây bút người Mỹ gốc Việt
thuộc thế hệ thứ nhất.
Lệ Lý Hayslip và những tác phẩm văn chương & điện ảnh
Giữa
Lệ Lý Hayslip và Mai Elliot có điểm chung là nhà văn nữ, sống cùng thời chiến
tranh nhưng họ lại có khác biệt là nguồn gốc gia đình trong xã hội Việt
Nam. Dương Vân Mai xuất thân trong một gia đình khá nổi tiếng, bà là hậu duệ đời
thứ tư của hai anh em danh sĩ Dương Khuê và Dương Lâm người làng Vân Đình, Hà Tây.
Nhà
thơ Nguyễn Khuyến có bài thơ “Khóc Dương
Khuê” mở đầu bằng câu “Bác Dương thôi
đã thôi rồi / Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…” để nói lên cái tình của ông
đối với Dương Khuê, người đã đỗ Cử Nhân năm 1864 dưới thời Tùng Thiện Vương và
2 năm sau đỗ Tiến sĩ thời Tự Đức. Thi sĩ Dương Khuê cũng đã từng nổi tiếng với
bài ca trù “Gặp lại cô đầu cũ”:
“Hồng Hồng, Tuyết,
Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết
cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt
có xa gì!
Ngoảnh mặt lại, đã tới
kỳ tơ liễu…”
Câu
chuyện về dòng họ Dương được Mai Elliott kể lại trong cuốn hồi ký “The Sacred Willow, Four Generations in the Life of a Vietnamese Family” (Cây liễu thiêng, bốn
thế hệ trong cuộc đời của một gia đình Việt Nam). Cuốn sách được xuất bản năm
1999 và sau đó được đề cử giải Pulitzer trong năm 2000. Mai Elliott tâm sự:
“Với hầu hết người Mỹ,
Việt Nam chỉ là một cuộc chiến tranh. Nghĩ đến Việt Nam, họ chỉ nghĩ đến chiến
tranh. Họ thực ra không hiểu rõ lịch sử Việt Nam ra sao, gia đình, phong tục tập
quán, những điều mà người Việt trải qua các thời đại như thế nào. Mục tiêu viết
sách của tôi rất giản dị, sách được viết cho chính những người Mỹ bình thường,
ít hiểu biết về Việt Nam”.
Gia
đình Dương Vân Mai cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh ý thức hệ: vợ chồng
người chị ruột theo Việt Minh nên ở lại Hà Nội, không di cư vào Nam cùng gia đình
năm 1954. Tại Sài Gòn, năm 1960, Mai là một trong số 15 học sinh Việt Nam giành
được học bổng của Mỹ để theo học ngành ngoại giao tại Đại học Georgetown.
Năm
1961, Mai đã gặp người chồng tương lai, David Elliott, tại một bữa tiệc Giáng
sinh dành cho những người Việt xa xứ ở Washington DC. William Yandell Elliott,
cha của David, là một học giả nổi tiếng tại Đại học Harvard và cũng chính là thầy
của những sinh viên sau này trở thành Tổng thống J.F. Kennedy và Ngoại trưởng
Henry Kissinger.
Năm
1964, sau khi tốt nghiệp, Mai Elliott cùng chồng quay lại Việt Nam và làm việc
cho RAND Corporation, một tổ chức nghiên cứu hợp tác với Bộ Quốc phòng Mỹ. Công
việc của vợ chồng Mai Elliot tại RAND là phỏng vấn và nghiên cứu về các tù binh
Cộng sản với mục tiêu giúp người Mỹ tìm hiểu về những người ở phía bên kia.
Năm
1968, Mai rời Việt Nam và định cư hẳn tại Mỹ. Năm 1973, Mai về thăm gia đình và
không ngờ đây là chuyến trở về lần chót trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Năm 1975, vào những giờ phút cuối cùng trước khi quân đội miền Bắc tiến vào Sài
Gòn, gia đình Mai Elliott được đưa khỏi miền Nam và định cư tại Mỹ.
Mai
Elliott đã tạo cho mình một chỗ đứng trong văn đàn tại hải ngoại. Đó là một vị
trí đặc biệt của những cây bút thiểu số gốc Á-Phi giữa một rừng bút tại Hoa Kỳ
mà phần đông là những người da trắng. Nhờ đó, độc giả người Mỹ có những hiểu biết
sâu sắc hơn về cuộc sống, con người và đất nước Việt Nam.
Mai
Elliott tại Hà Nội, 2012 - Ảnh: Trường Sơn
Hoàn
cảnh gia đình Nguyễn Thanh Việt cũng giống như trường hợp của Mai Elliott, họ đều
có gốc là người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Gia đình mẹ của Việt đều vào
Nam trong khi bên phía gia đình bố anh lại có những người quyết định ở lại Miền
Bắc.
Tiếp
đến là cuộc di cư lần thứ hai vào năm 1975, gia đình Việt thuộc nhóm
những người “vượt biên” đến Hoa Kỳ sớm nhất, khi đó anh
chỉ mới 4 tuổi. Mãi đến đầu thập niên 90 họ mới về lại Việt Nam. Bố của Việt gặp
lại bà con, họ hàng Nam-Bắc sau 40 năm xa cách và mẹ của anh cũng được hội ngộ
với người thân tại Sài Gòn sau 20 năm viễn xứ.
Chuyện
gia đình Việt được anh kể lại trong một cuộc phỏng vấn với nhiều chi tiết hấp dẫn
như trong tiểu thuyết. Tháng 3/1975 bố anh (ông Nguyễn Ngọc Thanh - Joseph
Thanh Nguyen) đang ở Sài Gòn lo công việc, họ có tiệm vàng khá nổi tiếng từ năm
1963, mang tên Kim Thịnh, tại Ban Mê Thuột (BMT). Cũng vào tháng 3/1975, thị trấn
BMT bị tràn ngập bởi bộ đội Bắc Việt và nơi đây cũng là chiến trường đầu tiên dẫn
đến việc Sài Gòn bị thất thủ ngày 30/4/1975.
Mẹ
anh, bà Linda Kim, cùng hai cậu con trai (Nguyễn Thanh Tùng và Nguyễn Thanh Việt cách nhau 7 tuổi)
và cô con gái nuôi 16 tuổi (Nguyễn Thị Thanh Hương) mất liên
lạc với ông Thanh kể từ đó. Bà quyết định rời BMT với 2 người con trai và để lại
cô con gái nuôi trông coi cửa hàng. Họ chạy loạn về Nha Trang bằng đường bộ.
Việt
còn quá nhỏ để nhớ lại những gì đã xảy ra trong suốt quãng đường dài từ BMT về
Nha Trang nhưng theo lời kể của người anh trai, đó là một cuộc hành trình gian
nan, khủng khiếp của quân và dân vùng cao nguyên chạy về vùng biển.
Hai anh em Nguyễn Thanh Tùng và Nguyễn Thanh Việt, hình chụp tại Việt Nam
(Nguồn: FB Việt Thanh Nguyễn)
Từ
Nha Trang, ba mẹ con đi tầu biển về Sài Gòn, tại đây
họ gặp lại ông Thanh. Rồi từ Sài Gòn, họ tiếp tục cuộc hành trình
tìm tự do bằng đường biển nhưng lại một lần nữa họ lạc nhau trong tình trạng hỗn
mang, ba mẹ con không biết người cha đang ở đâu? Có lên cùng tầu hay không? Giống hệt như trò chơi “bịt mắt bắt dê” của thời
con nít nhưng cuối cùng cả gia đình chung một chuyến tầu!
Ngày đến Hoa Kỳ, gia đình Việt được tập trung tại trại tỵ
nạn có tên là Fort
Indiantown Gap, thuộc tiểu bang Pennsylvania. Để rời khỏi trại tỵ nạn phải
có sự bảo lãnh của người Mỹ và khi đó rất khó tìm được người bảo lãnh cho cả một
gia đình gồm 4 người. Cuối cùng thì gia đình Việt phải chia tay nhau đến ờ với
3 đình bảo trợ: Việt, Tùng và ông bà Thanh.
Số mệnh đưa đẩy nên chuyện gia đình hợp-tan lại một lần nữa
lại xảy ra. Dù thời gian xa cách chỉ kéo dài không đến một năm nhưng đó lại là
một “chấn thương sâu đậm” trong tinh thần của một đứa trẻ mới 4 tuổi khi phải sống
xa sự chăm sóc của bố mẹ. Việt mô tả chấn thương đó tựa như một “dấu vết hằn sâu trên đôi vai suốt cuộc đời”!
Đầu tiên cậu bé sống với một cặp vợ chồng người Mỹ hãy còn
trẻ. Nhà của họ thuộc loại “nhà lưu động” (mobile home) và vì không có con cái
nên họ cũng chẳng có kinh nghiệm gì trong việc sống với một đứa trẻ lên 4.
Việt lại được chuyển tiếp đến một gia đình người Mỹ với sự
chăm sóc chu đáo hơn. Để giúp cậu bé cảm thấy thoải mái, họ đã dậy cậu cách sử
dụng đũa khi ăn và cả nhà đều dùng đũa! Việt nhớ lại, đó là lần đầu trong đời cậu
mường tượng được sự khác biệt về văn hóa giữa Mỹ và Việt.
Tại California, vào thời điểm, đó đang dần hình thành một
cộng đồng người Việt, họ tỏa ra từ trại tỵ nạn Pendleton ở gần thành phố San
Diego. Camp Pendleton cũng được Nguyễn Thanh Việt nhắc đến
trong “The Sympathizer” khi gia đình Ông
Tướng và người sĩ quan tùy viên đến Mỹ sau khi di tản khỏi Việt Nam.
Người Việt tại các nơi khác cũng rủ nhau về Cali vì khí hậu
ở đây tương đối giống với Việt Nam và thành phố San Jose là nơi lý tưởng cho mọi
người, trong đó có gia đình của Việt. Bước đầu, bố mẹ Việt giúp việc trong cửa
hàng thực phẩm của một người quen từ thời còn ở BMT.
Dần dà ông bà Thanh cũng mở một cửa hàng riêng chuyên
cung cấp các loại thực phẩm cho người Việt, chủ yếu là gạo, nước mắm và trái cây
nhiệt đới. Theo nhận xét của tác giả, người Việt rời đất nước lúc nào cũng muốn
duy trì truyền thống văn hóa dân tộc nhưng lại cũng vô tình mang theo cả sự tàn
bạo của chiến tranh. Với trí nhớ của một cậu bé chưa đến 10 tuổi, Việt vẫn bị ám
ảnh bởi cái ngày mà cửa hàng thực phẩm của gia đình bị chính người Việt tống tiền.
Với bất cứ giá nào, ông bà Thanh vẫn làm việc cật lực để
đầu tư vào tương lai của hai người con trai. Ngày nay, họ đều mãn nguyện khi nhìn
lại công sức của mình. Người con trai lớn, Nguyễn Thanh Tùng, hiện là Giáo sư Đại
học Stanford, ông cũng kiêm nhiệm chức vụ Cố vấn Y tế - Giáo dục - Kinh tế cho
Tổng thống Obama.
Người em, Nguyễn Thanh Việt, Giáo sư ngành Sắc Tộc Học và
Nghiên Cứu Hoa Kỳ và Anh Quốc, Đại học Southern California (USC). Quan trọng hơn
cả, anh là tác giả cuốn tiểu thuyết “The
Sympathizer”. Anh cũng là tác giả của nhiều bài nghiên cứu khoa học, gần
đây nhất là tác phẩm nghiên cứu về Việt Nam, “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War” (tạm dịch “Những chuyện
chưa
bao
giờ
tan
biến:
Việt Nam và Hồi Ức Chiến Tranh”) viết năm 2016.
Hình ản gia đình chụp tại
Harrisburg, Pennsylvania, 1976, một năm sau ngày đến Mỹ.
(Nguồn: FB Việt Thanh Nguyễn)
(Nguồn: FB Việt Thanh Nguyễn)
Ba trang ở phần cuối của “The Sympathizer” Nguyễn Thanh Việt dành cho những lời cảm tạ của tác
giả. Qua đó người đọc hiểu được những diễn biến của câu chuyện điệp viên được dựa
vào những tài liệu được người Mỹ công bố như cuốn “Decent Interval” của Frank Snepp và các bài viết về những ngày cuối
của Sài Gòn của các phóng viên ngoại quốc.
Kinh nghiệm của những cựu sĩ quan VNCH trong trại cải tạo
sau 1975 cũng được tham khảo và tác giả cám ơn những người viết như Trương Như
Tản, Huỳnh Sanh Thông, Trần Trí Vũ, Jade Ngoc Quang Huynh.
Đối với Miền Bắc, tác giả cũng tri ân những nhà văn, nhà
thơ bên kia chiến tuyến đã giúp tác giả có một cái nhìn cặn kẽ hơn, đặc biệt là
nhà thơ “cách mạng” Tố Hữu! Không biết tác giả vô tình hay cố ý đã quên một nhân
vật rất quan trọng của Miền Bắc. Người đã để lại một câu “khuôn vàng thước ngọc”
cho chế độ: “Không có gì quý hơn Độc lập,
Tự do”.
Ở Chương 22 có đoạn đối thoại giữa người viết bản tự khai
dài 307 trang với viên chính ủy xoay quanh câu nói của ông Hồ Chí Minh:
“Cái gì quý hơn độc lập
và tự do?
Hạnh phúc?
Cái gì quý hơn độc lập
và tự do?
Tình yêu?
Cái gì quý hơn độc lập
và tự do?
Tôi không biết!
Cái gì quý hơn độc lập
và tự do?
Ước gì tôi được chết!”
Theo Nguyễn Thanh Việt, ảnh hưởng quan trọng hơn cả là bộ
phim “Apocalypse Now” [*] về chiến
tranh Việt Nam của đạo diễn Francis Ford Coppola. Việt cho biết anh đã bị bộ
phim năm 1979 ám ảnh từ lúc hãy còn trẻ, đó cũng là lý do thôi thúc anh viết “The Sympathizer”.
“Đây là bộ phim ảnh hưởng mạnh đến một chàng trai trẻ như tôi, nó khiến tôi
như bị chia hai. Trong vị trí là một khán giả người Mỹ,
tôi nhìn thấy mình qua hình ảnh người lính trong phim. Cho tới khi họ giết người dân Việt Nam, những con người
nhìn giống tôi, đó là khoảnh khắc tràn ngập nỗi bối rối,
bức bối và đau đớn!”
Theo anh, bộ phim đã cho thấy điện ảnh Hollywood chỉ là một
công cụ tuyên truyền cho quân đội Hoa Kỳ mà không đếm xỉa gì đến thân phận của
của người gốc Á châu nói chung và người Việt nói riêng. Hằng triệu người bản xứ
đã bị giết (trực tiếp hay gián tiếp) trong cuộc chiến vừa qua, họ chỉ là những
bóng ma trong phim để tôn vinh những người lính Mỹ. Thế cho nên, Nguyễn Thanh
Việt đã để nhân vật chính trong “The
Sympathizer” thay anh trả đũa lại Hollywood trong vai trò cố vấn cho đạo diễn
người Mỹ làm phim chiến tranh về Việt Nam.
Phải chăng, đó là nguyên nhân sâu xa đã khiến người đọc –
dù là da trắng hay da màu – cũng thấy cái bóng của mình trong tác phẩm. Và đó cũng
là lời giải thích tại sao “The
Sympathizer” có thể chen chân vào danh sách Pulitzer của văn chương Hoa Kỳ.
***
Chú thích:
[*] Tham khảo về phim “Apocalypse Now” tại:
***
(Trích Hồi ức một đời người – Chương 10: Thời xuống
lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh
thổ)
Tác giả còn dự
tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét