Báo chí thời Pháp thuộc được khởi đầu bằng tờ báo quốc ngữ mang
tên Gia Định báo với ấn bản đầu tiên phát
hành ngày 15/4/1865 tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44 năm sau đó. Trên manchette
của Gia Định báo còn có dòng chữ Hán 嘉定報 (Gia Định báo) cho thấy sự chuyển đổi từ
Nho học sang Tây học vào thời kỳ này.
Gia Định báo được
phát hành sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên
Hòa (1862) và sau đó là ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên
(1867). Tờ báo này được coi như thuộc dạng công báo của chính quyền Pháp tại
Sài Gòn, về sau Gia Định báo được
tăng cường thêm mảng văn hóa-xã hội nhằm thu hút người đọc.
Gia Định báo
Gia Định báo số
đầu tiên có khuôn khổ 25x32 cm và được bán với giá 0$97 đồng mỗi tờ. Thoạt đầu,
báo ra mỗi tháng một kỳ vào ngày 15 như dạng nguyệt san, sau đó mỗi tháng 2 kỳ
(bán nguyệt san) rồi tăng kỳ lên hàng tuần (tuần san). Ngày phát hành Gia Định báo cũng không cố định, khi thì
Thứ Ba hoặc Thứ Tư, có lúc lại vào ngày Thứ Bảy. Số trang cũng thay đổi theo
tình hình thông tin thời sự, lúc thì 4 trang nhưng cũng có khi dày đến 12 trang.
Về nội dung, Gia Định
báo được chia thành hai phần chính: (1) Phần
công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền qua các bài đăng
công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền và (2) Phần tạp vụ gồm tin tức địa phương và
giải trí thuộc các lĩnh vực kinh tế, tôn giáo, văn hóa, xã hội.
“Gia Định báo” khởi đầu chỉ là một loại công báo
Giấy phép ra tờ Gia
Định báo được cấp ngày 1/4/1865 cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux
vốn là một viên thông ngôn người Việt quốc tịch Pháp làm việc tại Soái phủ Nam
Kỳ. Chuẩn đô đốc Roze, khi đó đang tạm quyền Thống đốc Nam Kỳ, ký tên trên giấy
phép ra báo.
Đến ngày 16/5/1869 có Nghị định mới của Thủy sư Đô đốc Ohier
bàn giao Gia Định báo cho Jean-Baptiste
Pétrus Trương Chánh Ký (sau đổi tên đệm thành Pétrus Trương Vĩnh Ký, gọi tắt là
Pétrus Ký) làm Giám đốc [1] và Paulus Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút [2].
Dưới thời Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc, Gia Định báo có thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch
thuật, sưu tầm, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích... Ông đề ra ba mục
đích cho tờ báo: (1) Truyền bá chữ quốc ngữ, (2) cổ động tân học và (3) khuyến
học trong dân. Từ đó, Gia Định báo không
chỉ làm một tờ công báo đơn thuần mà trở thành một tờ báo theo đúng nghĩa báo
chí: thông tin và giải trí.
Pétrus Trương Vĩnh Ký
Quảng cáo lần đầu tiên xuất hiện trên Gia Định báo từ đầu năm 1882. Tờ báo đã dành toàn bộ trang cuối để
đăng quảng cáo cho Nhà thuốc Pharmacie
Reynaud. Từ đó trở đi, quảng cáo trở thành một trang cố định, xuất hiện
thường kỳ trên Gia Định báo và hoạt
động quảng cáo cũng dần phổ biến ở nhiều báo khác cho đến ngày nay.
***
Sau khi Gia Ðịnh Báo ra
đời năm 1865, một loạt các báo khác xuất hiện tại Sài Gòn theo thứ tự thời gian
dưới đây:
Phan Yên Báo xuất
bản năm 1868, do ông Diệp Văn Cương chủ trương biên tập. Tên “Phan Yên” là một
cách nói lái từ chữ Phiên An, tên cũ của thành Gia Định. Tuần báo Phan Yên Báo ngoài nội dung tương tự như
Gia Định báo còn có những bài mang
tính cách chính trị, chống đối lại sự hiện diện của người Pháp ở Việt Nam, chẳng
hạn như bài “Đòn cân Archimede” của
Cuồng Sĩ nên chỉ một thời gian ngắn bị chính phủ bảo hộ ra lệnh đóng cửa.
Nhựt trình Nam Kỳ
(Le Journal de Cochinchine) là tuần báo ra ngày Thứ Năm, số ra mắt xuất bản
vào năm 1883. Nhựt trình Nam Kỳ có
địa chỉ tại số 53 đường Nationale do ông A. Schreiner làm Giám đốc (Directeur).
Giá bán báo tại Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Mên và Lào là 5$ một năm trong khi độc giả
tại Langsa (Pháp) vào ngoại quốc phải trả 6$/năm. Giá bán lẻ là 0$15 mỗi số.
Ngay trên trang nhất Nhựt
trình Nam
Kỳ có giới thiệu: “Giá in lời rao
báo” (quảng cáo): “Giá in một phân
tây xen vô giữa mấy trương nhựt trình, thì là… 1$25. Giá in một phân tây vào
mấy trương lời rao ở phía sau, thì là… 1$00”.
Phần chính giữa giá báo và giá quảng cáo trên manchette có
rao: “Ai muốn mua, hay là muốn in việc
chi vào nhựt-trình này thì phải gởi bạc cho ông A. SCHREINER, Directeur…”
Thông loại khóa trình (Miseellanées):
Số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet 1888 (Tháng bảy năm
1888) nhưng đến năm 1889 ngưng xuất bản sau khi ra được 18 số. Đây là loại
nguyệt san do tư nhân xuất bản theo kiểu “sách đọc thêm”, khổ 16x23,5 cm, mang
tính cách giáo dục và giải trí do Trương Vĩnh Ký chủ trương.
Nông-Cổ Mín-Đàm (uống
trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn) là tờ báo tiếng Việt do Paul Canavaggio,
chủ đồn điền người đảo Corsica, hội viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ làm chủ
nhiệm. Chủ bút lần lượt là các ký giả Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần
Chánh Chiếu và Nguyễn Chánh Sắt. Tuần báo này được coi là “báo kinh tế” đầu tiên
tại Việt Nam với 8 trang, khổ 27x20 cm, số 1 ra ngày 1/8/1901.
Nông-Cổ Mín-Đàm
bàn về nông nghiệp và thương nghiệp, phát hành ngày Thứ năm hằng tuần tại Sài
Gòn. Một thời gian sau báo được xuất bản một tuần 3 kỳ. Sau khi phát hành số ra
ngày 4/11/1921 thì báo bị đình bản.
Tờ báo này ra đời theo một nghị định của Toàn quyền Đông
Dương Paul Doumer ban hành tại Sài Gòn ngày 14/2/1901. Ban đầu, trụ sở của tòa
soạn đặt ở số 84 đường La Grandière, Sài Gòn. Một thời gian sau, trụ sở thay
đổi liên tục, cuối cùng tọa lạc tại số 12 đường Cap St–Jacques, Sài Gòn. Mục
đích của việc xuất bản tờ báo được nói khá rõ ở lời "tự tự” số 1:
“Hai mươi năm chẳng ở
miền Nam thổ, nay đã tiệm thành cơ chỉ qui mô. Đường thiên lý lục tỉnh dẫu khác
đạo cang thường lễ nghĩa như nhau, nơi nơi cũng "Tạo doan hồ phu
phu". Việc hiếu-sự nay đà rang rảnh tình thê nhi thêm lại rịch ràng. Vậy
nên công sự từ hưu, vui theo thú thê trì nông-cổ. Thương Nam thổ dường như cố
thổ, mến Nam nhơn quá bằng Tây nhơn, muốn sao cho nông-cổ phấn hành, sanh đại
lợi cùng nhau cọng hưởng. Vậy ra sức lập nên nhựt báo thông tình nhau mà lại
rộng chổ kiến văn, lần lần liệu ta cử đồ đại sự.
Trong Đông cảnh
Cao-ly, Nhựt-bổn, nước Xiêm-la cùng nước Đại-thanh đâu đâu cũng đều có công văn
nhựt báo. Há Lục tỉnh anh hùng trí dõng, lại khoanh tay ngồi vậy mà xem, không
thi thố cùng người mà trục lợi.
Nay nhờ lượng quan
trên nghị chuẩn, cho ấn hành Nông-cổ mín-đàm. Vậy xin lục dịch lảm tàng, mà gắn
sức giúp nhau nên việc.
Canavaggio cẩn tự
“Nông-Cổ Mín-Đàm” số ra mắt
với bài “Nông-Cổ Nhựt-Báo Tự Tự”
Nông-Cổ Mín-Đàm được
phổ biến khá rộng rãi tại các vùng Lục tỉnh, tuy nhiên số người mua báo không
nhiều. Theo mục “Bổn quán cẩn tín” trang 6 số 39 (ngày 22/5/1902), thì sau gần 1
năm phát hành, đã có 325 người mua báo, chủ yếu là các quan chức và điền chủ ở
các địa phương, như cai tổng, hội đồng, hương chủ, tri huyện, và các công chức
nhà nước. Họ là những người biết đọc chữ quốc ngữ và quan tâm đến các vấn đề mà
tờ báo đề cập.
So với tờ Gia Định báo
thì số lượng phát hành của Nông cổ mín
đàm tương đối khiêm tốn. Lý do chính: Gia
Định báo là công báo được chính phủ Pháp tài trợ xuất bản, và buộc các làng
các tổng phải mua, trong khi Nông-Cổ
Mín-Đàm là tờ báo tư nhân, tự trang trải tài chính. Giá báo một năm dành cho
người Việt (bổn quốc) là 5$, cho người Pháp (người Langsa) và người nước ngoài
là 10$.
Ngoài tên báo Nông-Cổ
Mín-Đàm được in bằng chữ quốc ngữ, ngay bên dưới có 4 chữ Hán 農賈茗談 (Nông cổ mín đàm), sau cùng là một hàng
chữ Pháp “Causeries sur l'agriculture et
le commerce” (đàm đạo về nông nghiệp và thương nghiệp). Báo có khổ 20x30
cm, với tổng cộng 8 trang, trong đó các trang giữa đăng truyện dịch (như Tam quốc chí tục dịch hay một số truyện
ngắn khác của Anh, Pháp hoặc Trung Quốc), thơ ca do các cộng tác viên sáng tác,
điểm báo châu Âu, hướng dẫn cách thức vệ sinh phòng bệnh hoặc trồng trọt chăn
nuôi, thông tin số lượng và giá lúa gạo bán đi các nước, 2 trang cuối dành cho
quảng cáo và rao vặt.
“Thương cổ luận”
là một mục quan trọng của tờ báo, thường được đăng trên trang nhất và nối tiếp
đến trang sau. Mục này xuất hiện ngay từ số đầu tiên, và chỉ tạm thời đình bản
trong 8 số (từ số 73 đến số 79) vì lý do tác giả là Lương Khắc Ninh đi dự đấu
xảo tại Hà Nội. Đến năm 1906, “Thương cổ
luận” chính thức giã từ Nông-Cổ Mín-Đàm.
Mục“Thương cổ luận”
tồn tại trong suốt hơn 100 số báo, thẳng thắn tuyên chiến với tư tưởng “tứ dân”: sĩ nông công thương vốn đã ăn
sâu vào suy nghĩ của người Việt. Tờ báo khẳng định “một trật tự mới”: “thương công nông sĩ”.
“Đại thương” là đệ
nhứt cách giúp cho dân phú quốc cường,
đồng thời báo cũng hướng dẫn các thương nhân Việt Nam cách giao thương buôn bán
và khuyến khích, kêu gọi họ đoàn kết để cạnh tranh với các thương nhân Hoa kiều
và Ấn kiều. Nông-Cổ Mín-Đàm được coi
là tờ báo kinh tế đầu tiên bằng chữ quốc ngữ của Việt Nam .
Nông-Cổ Mín-Đàm
cũng là một trong các tờ báo đầu tiên thúc đẩy việc dịch thuật “truyện Tàu” ra chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ,
mở đầu bằng truyện Tam quốc chí tục dịch
với tên người dịch được ghi là của Chủ nhiệm Paul Canavaggio. Nông-Cổ Mín-Đàm còn là tờ báo lần đầu
tiên có sáng kiến tổ chức cuộc thi viết tiểu thuyết tại Việt Nam .
“Nông-Cổ Mín-Đàm”
Lục Tỉnh Tân văn xuất
hiện năm 1907, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, phát hành hàng tuần. Tuần báo viết
bằng chữ quốc ngữ số đầu tiên ra ngày 14/11/1907 do F.H. Schneider – một chủ
nhà in người Pháp sáng lập và Trần Chánh Chiếu [3] làm chủ bút. Tờ Lục Tỉnh Tân văn nổi bật với Trần Chánh
Chiếu, ông là người đề xướng phong trào Minh Tân nên hoạt động rất mạnh trên tờ
báo để cổ súy phong trào này. Minh Tân xuất xứ từ sách Đại Học: “tác minh đức, tác tân dân” có nghĩa làm
cho “Đức” sáng hơn, người dân mới có thể “Mới” hơn. Ngoài ra, Lục Tỉnh Tân văn còn có mối quan hệ đặc
biệt với phong trào Đông Du và Duy Tân.
Trong thời kỳ này, các thuật ngữ như “Nam Trung” và “Lục
Châu” được sử dụng với hàm ý đất và người phương Nam. Lục Tỉnh Tân văn dùng những cụm từ như “Xin chư vị lục châu phải rõ…”, “các vị cao minh trong Lục châu…”, “cúi
xin Lục châu đồng tâm hiệp lực…”, “Kính cáo: Cùng Lục châu quí vị đặng rõ…”.
“Nam Trung” cũng xuất hiện trên các bảng hiệu như Nam Trung khách sạn hoặc Nam Trung dược liệu…
Lục Tỉnh Tân văn cũng
chú ý đến vấn đề quảng cáo, được thực hiện qua tiêu đề Lời rao. Chẳng hạn như: “Tổng
lý là G. Chiếu ra thông cáo cho biết ai có hùn vốn thì có quyền gởi con đến học
nghề, thời hạn học là 7 năm, công ty nuôi cơm nước còn quần áo, mùng mền thì
cha mẹ phải chịu. Công ty lo nhà ngủ, nhà ăn cho học trò, đứa nào học giỏi sẽ
được hưởng lương tháng, sau đó, khi biết nghề rồi phải giúp việc cho công ty 7
năm”. Trong thời gian biểu học tập có ghi rõ các phần học nghề, học chữ quốc
ngữ, học chữ “Lang sa” (tiếng Pháp), thời gian luyện tập thể thao và dọn dẹp vệ
sinh...”
Lục Tỉnh Tân văn cũng
có nhiều bài công kích chế độ thuộc địa, kêu gọi đồng bào đoàn kết chống quan
lại tham nhũng khiến nhà cầm quyền Pháp phải chú ý. Cuối tháng 10/1908, Tổng lý
là Trần Chánh Chiếu bị bắt và Lục Tỉnh
Tân văn bị rút giấy phép.
Dưới áp lực của nhà cầm quyền, Lục Tỉnh Tân văn số 50 ra ngày 29/10/1908 chỉ loan tin về việc bắt
bớ như sau: “Chủ bút Lục tỉnh tân văn đã
bị giam cầm vì tội đại ác. Vậy chủ nhơn kính tỏ cùng tôn bằng quí khách đặng rõ
rằng bổn quán thiệt vô cùng không hay không biết những việc Chủ bút (Gibert
Chiếu) phản bạn, giao thông với người ngoại quốc. Nhà nước cũng cho bổn quán
biết nhà nước chẳng chút nào tin dạ trung nghĩa của Gibert Chiếu, cho nên đã có
ra lịnh kiềm thúc thám sát (ông) quá đỗi nhặt nghiêm…”
Lục Tỉnh Tân Văn
Nữ giới chung (tiếng
chuông của nữ giới): Phát hành số đầu tiên ngày Thứ sáu, 1/2/1918. Chủ nhân tạp
chí này là một người Pháp, Henri Blaquière, ông này còn làm giám đốc một tờ báo
khác bằng tiếng Pháp, tờ Le Courrier
Saigonnais. Ông Blaquière giao phó cho bà Sương Nguyệt Anh [4] phụ trách
ban biên tập.
Nội dung Nữ giới chung
đăng những bài xã luận, thơ, tiểu thuyết, một vài tin tức và có cả một phần
dạy làm bếp. Trong số đầu, vị chủ bút, bà Sương Nguyệt Anh đã ghi rõ mục đích
của tạp chí là chú trọng đến việc truyền bá chữ quốc ngữ và không đề cập đến
vấn đề chính trị. Lời tựa đầu của Nữ giới
chung có đoạn viết:
“… Bổn báo sự nghiệp
thiệt mỏng như tờ giấy, trách nhiệm lại chuyên về đờn bà… đâu dám tự nhận là cô
giáo sư mà theo trong qui củ, chương trình như trường học (…) Người xưa có câu
thơ đề chuông rằng: “Một tiếng khua vang năm hồ bốn biển”… Nghĩa chỉ có ý muốn
tỷ mình như chuông báo thức, kề tai mấy tiếng, kêu nhau trong chị em nhà. Bởi
thế nên lấy tên Nữ Giới chung mà đặt hiệu báo”
Tờ Nữ giới chung
là một tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam ,
sự xuất hiện của nó quả là một biến cố quan trọng đối với người dân lúc bấy
giờ, đặc biệt là đối với phụ nữ Việt Nam . Sau gần một năm ra mắt độc
giả, tháng 7/1918, Nữ Giới Chung bị đình
bản và biến thành một tờ báo khác: Đèn
Nhà Nam .
Nữ-Giới-Chung
Dưới thời Pháp thuộc còn có một số báo khác như Nhật báo Tỉnh (tuần báo, phát hành vào
ngày Thứ Năm hàng tuần, từ năm 1905 đến 1912), Công luận Báo (Lê Sum làm Chủ bút, phát hành vào ngày Thứ Ba và Thứ
Sáu), Trung lập Báo (Phi Vân Trần Văn
Chim tác giả Ðồng Quê làm chủ bút)…
Từ bước đầu sơ khai dưới thời Pháp thuộc, nền báo chí Việt
Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã tiến một bước dài sang thời Đệ nhất và Đệ
nhị Cộng hòa từ năm 1954 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam. Đó là đề tài sẽ được
bàn tới trong bài viết về giai đoạn báo chí Sài Gòn thời VNCH kế tiếp.
***
Chú thích:
[1] Pétrus Trương Vĩnh
Ký (1837-1898): nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học, và nhà khảo
cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam .
Ông có tri thức uyên bác, am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn
hóa cổ kim Đông Tây, nên được tấn phong Giáo
sư Viện sĩ Pháp, có tên trong Bách
khoa Tự điển Larousse, và đứng trong nhóm Toàn cầu bác học thập bát quân tử (18 nhà bác học hàng đầu thế giới
thế kỷ 19).
Ngoài ra, vì biết và sử dụng thông thạo 27 ngoại ngữ, nên
ông trở thành nhà bác học biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam, và đứng vào
hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới. Ông để lại hơn
100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật, ... Riêng đối
với nền báo chí Quốc ngữ Việt Nam, ông được coi là "ông tổ nghề báo Việt
Nam", người đặt nền móng cho ngành báo chí với tờ Gia Định báo.
Tượng Pétrus Ký
Trước năm 1975, tại Sài Gòn có Tường trung học Pétrus Ký được thành lập năm 1927 là một trong những
trường trung học đầu tiên tại Sài Gòn. Trường Pétrus Ký sau năm 1975 được đổi
tên thành Trung học phổ thông chuyên Lê
Hồng Phong, tên của Tổng bí thư thứ 2, Đảng Cộng sản Đông Dương 1935-1936,
vợ ông là Nguyễn Thị Minh Khai, một yếu nhân của Đảng trong thời kỳ đầu..
Trong số những nhân vật nổi tiếng của cả hai miền Nam-Bắc xuất
thân từ trường Pétrus Ký phải kể đến Đỗ Cao Trí, Trần Đại Nghĩa, Huỳnh Văn
Nghệ, Dương Minh Châu, Trần Văn Ơn, Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê, Tô Văn Tuấn (nhà
văn Bình Nguyên Lộc), Nguyễn Ngu Í…
Trường Pétrus Ký xưa
[2] Paulus Huỳnh Tịnh
Của (1834-1907): Năm 1865, ông thay Trương Vĩnh Ký làm chủ bút tờ công báo
quốc ngữ Gia Ðịnh báo trong một thời
gian ngắn. Mặc dù tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn, đa số các tác phẩm của
ông được viết bằng chữ quốc ngữ, vào thời bấy giờ vẫn chưa được coi trọng và bị
đánh giá thấp hơn so với chữ Hán hay chữ Pháp. Huỳnh Tịnh Của từng đề nghị dùng
chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán và gửi một bản điều trần cho vua Tự Đức, yêu cầu
cho xuất bản báo chí quốc ngữ để giáo dục quần chúng, nhưng không được chấp
nhận.
Huỳnh Tịnh Của sáng tác khá nhiều và đa dạng, nhưng trong số
những tác phẩm của ông, nổi bật nhất là pho Đại
Nam
quốc âm tự vị. Qua tác phẩm đồ sộ đó, Huỳnh Tịnh Của đóng góp rất nhiều cho
việc xây dựng quốc văn mới. Ðại Nam quốc âm tự vị là quyển tự vị tiếng Việt
đầu tiên của Việt Nam , do
người Việt Nam
biên soạn. Nghiên cứu của Huỳnh Tịnh Của được đánh giá là mang tính đột phá táo
bạo khi phải đến hơn ba mươi năm sau mới lại có một hội văn học ở Bắc Kỳ, Hội khai trí Tiến Đức, nghĩ đến tiếp tục
công việc đó và cho tới tận bây giờ, Đại
Nam quốc âm tự vị vẫn được coi là pho sách kinh điển của những nhà nghiên
cứu ngôn ngữ Việt Nam. (Wikipedia)
[3] Gilbert Trần Chánh
Chiếu (1868-1919) là nhà văn, nhà báo và là nhà cải cách tại Việt Nam với
các bút danh như Kỳ Lân Các, Nhựt Thăng, Thiên Trung, Mộng Trần… Năm 1906, ông
thay Lương Khắc Ninh làm chủ bút tờ Nông
Cổ Mín đàm. Nghe tiếng ông là người nhiệt tình yêu nước, Phan Bội Châu lúc
bấy giờ đang ở Hương Cảng (Hồng Kông), liền mời sang gặp ông và sang Nhật Bản
gặp Kỳ Ngoại hầu Cường Để.
Trở về nước, hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Bội Châu, Trần
Chánh Chiếu đã vận động nhiều thanh niên sang Nhật Bản học tập theo phong trào
Đông Du và phổ biến các tác phẩm yêu nước của cụ Phan. Đồng thời, với vai trò
chủ bút tờ tuần báo Lục tỉnh tân văn,
Trần Chánh Chiếu công khai hô hào duy tân cứu nước, rồi cùng với bạn đồng chí
hướng lập Nam Kỳ minh tân công nghệ xã
(1908), và nhiều cơ sở kinh tài khác...
Những việc làm của ông được giới điền chủ và giới công chức
hưởng ứng nhiệt liệt. Vì vậy, ông bị nhà cầm quyền cử người theo dõi. Tháng
10/1908 Trần Chánh Chiếu bị người Pháp bắt giam vì tội có quan hệ với phong
trào Đông Du và viết báo chống lại mẫu quốc. Theo nhà văn Sơn Nam thì có đến 91 người bị bắt
trong vụ này. (Wikipedia)
[4] Sương Nguyệt Anh
(1864- 1921): tên thật là Nguyễn Thị Khuê nhưng tên ghi trên bia mộ lại là
Nguyễn Ngọc Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký
nhiều bút hiệu khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh... Bà là nhà thơ và
là chủ bút nữ đầu tiên của Việt Nam .
Tờ báo Nữ giới chung do bà phụ trách
là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn.
Bà sinh tại quê ngoại ở làng An Ðức, quận Ba Tri, tỉnh Bến
Tre. Quê quán bên nội ở làng Bồ Ðiền, quận Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Nội tổ của bà là ông Nguyễn Ðình Huy vào miền Nam làm Thơ Lại trong dinh trấn của
Tả Quân Lê văn Duyệt. Sau cụ Huy lấy người vợ thứ, quê ở Cầu Kho, thành Gia
Định, sinh ra Nguyễn Đình Chiểu, tác giả của tác phẩm: Lục Vân Tiên. Cụ Ðồ
Chiểu có vợ là Lê thị Diên, người Cần Giuộc, tỉnh Tân An, hạ sinh được tất cả
bảy người con. Bà Nguyệt Anh là người con gái thứ tư của cụ Ðồ Chiểu, nhưng
theo cách gọi trong Nam
nên người ta gọi bà là cô Năm Hạnh. (Wikipedia)
Sương Nguyệt Anh
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người – Chương 8: Thời mở cửa)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
Xin phép anh cho tôi đăng loạt bài "Báo Chí Sài-Gòn" ỏ: https://nuocnha.blogspot.com
Trả lờiXóa