Sau Nhã Ca và Túy Hồng, lại một nhà văn nữ nữa có xuất xứ từ
vùng đất Thần Kinh: Nguyễn Thị Hoàng [1]. Người đọc có thể sẽ nhíu mày, “Lại Huế!!!”.
Tuy nhiên, xét cho cùng, họ là những nhà văn sinh trưởng tại
Huế nhưng không sống ở Huế suốt đời. Họ đã xuôi Nam , về Sài Gòn và thành công trong
việc tìm một chỗ đứng trên văn đàn. Cũng không sai khi nói họ “mất gốc” nhưng
có lẽ bản chất “gái Huế đa tình” đã ăn sâu vào tiềm thức của họ. Và đó là một
trong những lý do khiến họ thành công trong nghề viết.
Chất Huế (bao gồm ngôn ngữ và không gian) trong các tác phẩm
của 3 nhà văn nữ này ngày càng giảm dần: từ đậm nét trong truyện của Nhã Ca như
Cổng trường vôi tím, Giải khăn sô cho Huế…
sang đến bàng bạc chút Huế trong Túy Hồng và hình như mất hẳn 'nét Huế' trong
Nguyễn Thị Hoàng. Điều này cũng dễ hiểu. Những nhà văn nữ, một khi đã đạt được
phần nào sự nổi tiếng, họ sẽ là nhà văn của cả nước chứ không còn là của một địa
phương nào.
Điểm qua các tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng ta thấy “lý lịch”
của các nhân vật thật phong phú và đa dạng. Nhân vật đó có thể là cô giáo trên
Đà Lạt tạo nên Vòng tay học trò hoặc người
nữ tu trong nhà thương với những nuối tiếc trần tục trong Cho những mùa xuân phai…
Thậm chí trong số nhân vật đó còn có một cô gái liêu trai ám
ảnh cuộc đời một tài tử điện ảnh trong Bóng
lá hồn hoa tận bên Đài Loan hoặc một người phụ nữ Việt Nam nào đó (Nguyễn
Thị Hoàng?) có liên quan đến hai vợ chồng người họa sĩ Nhật trong Tan trong sương mù, một truyện tình có
nhiều ẩn dụ.
Nguyễn Thị Hoàng
Nguyễn Thị Hoàng cho biết: “Truyện mình viết thường là truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những vai nữ bao giờ cũng khát khao đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật nữ lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình. Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời… rồi ráp thành chuyện.
Không biết bên đàn ông
thì sao, chứ cánh đàn bà thường mắc phải cái này là có những nét của nhân vật
hoặc chính, hoặc phụ, thế nào cũng hắt bóng cá tính thói quen, đường nét và vóc
dáng của tác giả. Riêng về 'Vòng Tay Học Trò', nếu bảo đó là thực thì cũng không
hẳn là thực mà bảo là không thực thì… cũng chẳng phải là thế. Dư luận trộn lẫn
tiểu thuyết của mình với đời sống thật. Cũng vì thế mà có những tiếng ác ý lao
xao về đời sống của mình. Cho nên chỉ có cách là… phải thản nhiên”.
Vòng tay học trò
(Bản in lần thứ 4, tác giả có sửa chữa)
Vòng tay học trò [2]
được coi như tác phẩm đầu tay của Nguyễn Thị Hoàng, xuất hiện nhiều kỳ trên
Bách Khoa và được tái bản nhiều lần sau bản in đầu tiên năm 1966. Chính tác giả
trong một cuộc phỏng vấn với Mai Ninh năm 2003 đã nói về việc viết Vòng tay học trò (VTHT):
“Chán chương trình,
không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư ký
riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy
học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường
nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt.
Mùa hè 1964, một xấp
pelure ố vàng, một cây bút gì đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách Khoa in
mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT
xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy
tháng.
Sóng gió nổi lên từ
mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên
tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn
trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ
những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà
trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp
tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết”.
Tác giả xác định một cách nửa vời về Vòng tay học trò: “…nếu bảo
đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì…cũng chẳng phải
là thế”. Như đã nói, những nhà văn nữ thường “tự thuật” về cuộc đời mình và
chính những kinh nghiệm bản thân khiến tác phẩm của họ dễ đi vào lòng người
đọc. Dĩ nhiên việc “thêm mắm thêm muối”
còn tùy thuộc vào sự khéo léo của mỗi đầu bếp để có một món ăn ngon hay dở.
Vòng tay học trò
là câu chuyện có thật tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt giữa cô giáo đệ nhất cấp
Nguyễn Thị Hoàng và cậu học sinh đệ nhị cấp Mai Tiến Thành. Tôi vốn là bạn học
rất thân với Thành từ năm Đệ Ngũ trên Ban Mê Thuột nên biết rõ chuyện tình của
Thành. Tuy nhiên, những gì xảy ra ngoài đời thực có phần nào khác với Vòng tay học trò, đó là kỹ thuật “thêm mắm thêm muối” của nhà văn Nguyễn
Thị Hoàng. Nói khác đi, phần 'hư cấu' trong tiểu thuyết được giữ ở mức vừa phải,
có thể chấp nhận được.
Hình như để giữ cho mối tình cô giáo - học trò thi vị hơn, tác
giả đã để cho cuộc tình chấm dứt tại Sài Gòn và không đả động đến hậu quả của
nó: một đứa con đã ra đời. Đứa bé được đặt tên Mai Quỳnh Chi, giao cho gia đình
Thành nuôi nấng tại Ban Mê Thuột và ngày nay đã trở thành một thiếu nữ sống tại
nước ngoài. Mai Tiến Thành đã trở thành người thiên cổ tại Hoa Kỳ và câu chuyện
tình làm nên tác phẩm rồi cũng đi vào quên lãng.
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về
qua nét bút của họa sĩ Chóe
Trước khi lên Đà Lạt dậy học, gia đình Nguyễn Thị Hoàng sống
tại Nha Trang. Những năm theo học tại trường Võ Tánh, Nguyễn Thị Hoàng dính vào
một 'scandal', một thời là đề tài nóng bỏng tại thành phố biển.
Cô nữ sinh dan díu và có thai với ông Cung Giũ Nguyên [3], giáo
sư Pháp văn, hơn Nguyễn Thi Hoàng gần ba mươi tuổi. Biến cố đầy tai tiếng này
được dàn xếp êm thấm giữa hai gia đình với lời thú nhận can đảm của người trong
cuộc:
“Ông Cung Giũ Nguyên không có lỗi trong vụ này. Lỗi là do tôi dụ dỗ ông ta khi theo học thêm lớp Pháp văn tại nhà, vì tôi muốn có một đứa con thông minh xuất chúng như ông ấy!”.
Đứa con gái sinh ra được đặt tên Cung Giũ Nguyên Hoàng và được bà vợ chính thức của ông Nguyên nuôi dưỡng vì bà này không thể có con. Trong ngày tang lễ của ông Cung Giũ Nguyên (tháng 11/2008) người ta thấy Cung Giũ Nguyên Hoàng phục tang cha, ôm bát nhang đi trước linh vị.
Nguyễn Thị Hoàng trong bài Về thư gửi con của Thái Kim Lan đăng trên Da Màu có đoạn viết về tình mẫu tử:
“Mỗi phụ nữ có con đều được là mẹ và làm mẹ, nhưng trên mẫu số chung là thương con, hàng tỉ tử số khác nhau cho tự tính là và làm mẹ ấy, tùy thuộc dân tánh, căn chất, đẳng cấp, thể loai khác nhau của phụ nữ. Cái là xác định tính cách sinh sản, sáng tạo và hoàn thành một công trình, tuyệt phẩm”.
“Mỗi phụ nữ có con đều được là mẹ và làm mẹ, nhưng trên mẫu số chung là thương con, hàng tỉ tử số khác nhau cho tự tính là và làm mẹ ấy, tùy thuộc dân tánh, căn chất, đẳng cấp, thể loai khác nhau của phụ nữ. Cái là xác định tính cách sinh sản, sáng tạo và hoàn thành một công trình, tuyệt phẩm”.
Nguyễn Thị Hoàng
Sau này, người chồng chính thức của Nguyễn Thị Hoàng là Nguyễn Phúc Bửu Sum, có họ hàng với họa sĩ Nghiêu Đề. Ông Bửu Sum trong thời VNCH đã qua nhiều giai đoạn cùng cực: trốn lính rồi bị bắt, đào ngũ rồi cũng bị bắt lại… Nguyễn Thị Hoàng ngoài việc viết lách còn phải chăm sóc 5 đứa con, lo việc nhà cửa, bếp núc.
Truyện dài Cuộc tình
trong ngục thất là “tự truyện” của Nguyễn Thị Hoàng trong giai đoạn khó
khăn này. Truyện kể lại việc Bửu Sum trốn lính, bị bắt, làm 'lao công đào binh' tác chiến
ngoài Quảng Ngãi và rồi lại đào ngũ. Cuốn truyện không mang tính cách phản
chiến nhưng lại mang nhiều suy nghĩ trung thực của người phụ nữ trong cuộc
chiến vừa qua. Nguyễn Thị Hoàng viết:
“Những gì đáng mất đi
vẫn còn. Những gì đáng lẽ còn đã phải mất. Những kẻ được, lại thua lỗ bỏ đi. Kẻ
đáng thua lỗ, lại ngồi trì, ăn có. Mọi chuyện như cái con vụ. Con ếch nhường
chỗ cho con gà. Con tôm nhường chỗ cho con heo. Cái vụ tròn bé thơ quay tít
trong bao nhiêu con mắt khắc khoải đợi chờ”.
Hai nhân vật chính trong truyện hoàn toàn không có tên, thay vào đó là Người Vợ và Người Chồng, nhiều đoạn chỉ được giới
thiệu vỏn vẹn Vợ hoặc Chồng. Ta hãy đọc đoạn văn ngắn viết về sự
căng thẳng, phập phồng trong tâm trạng của người trốn lính:
“Người chồng ngồi lặng
yên nhả khói thuốc. Khói thuốc ấm áp toả vòng tròn trên hai con mắt nâu đã đục
vàng vì những đêm liên miên mất ngủ. Thỉnh thoảng, những ngón tay dài đã gầy gò
lồng trong mái tóc cắt ngắn lô nhô sợi buồn rã rượi, cào một vòng, trút bỏ bụi
mù của đường xa đã đi.
Chồng không nói gì. Vợ
cũng im hơi, nhưng hai người nghe rõ trong nhau những tiếng thở dài thầm kín
pha lẫn những tiếng kêu gào náo nức quắt quay của phút đợi chờ phập phồng kéo
dài tưởng đến hết một đời người chưa dứt”.
Có thể nói, văn phong của Nguyễn Thị Hoàng cũng tựa như của
Mai Thảo: rất “điệu đà”, rất “bay bướm” và rất “làm dáng”… đến độ nhiều khi trở
thành sáo rỗng. Chẳng hạn như trong Người
yêu của Đấng Trời, một tiểu thuyết đã được viết từ hơn một chục năm nay nhưng
chưa hề xuất bản. Hợp Lưu trích đăng
một chương có những đoạn viết:
‘‘Tất cả đều in bóng
lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi mắt linh hồn mãi mãi tìm
nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im
lặng và bóng tối.’’
…
‘‘Khoác lên trái tim
chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến
tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc
đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh nến hồng thuở trước, trên tình yêu không
bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’’
Nguyễn Thị Hoàng, năm 2007
(Ảnh của Thái Kim Lan)
Trước khi nổi tiếng trong nhóm nhà văn nữ trước 1975, Nguyễn Thị Hoàng là một nhà thơ của xứ Huế với hai tập thơ Sầu riêng (1960) và Sau phút đam mê (1961). Nổi bật hơn cả là bài thơ Chi lạ rứa với 40 câu thơ mang đặc những ngôn từ của miền Trung như chi lạ rứa, bởi vì răng, bên ni bờ, đau chi mô, hiểu chi mô… (Xem nguyên văn bài thơ trong phần chú thích trong bài viết Đọc lại Vòng
Những vần lục bát là thế mạnh trong thơ Nguyễn Thị Hoàng với
những câu thơ rất da diết nhưng cũng rất tự nhiên như văn viết:
“Em mười sáu tuổi tơ măng
Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu”
“Trong cơn chăn gối rã rời
Im nghe từng chuyến xe đời đi qua”
“Đường về không nhịp trùng lai
Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình"
“Nhìn lên thành phố không đèn
Âm u còn một màn đêm cuối cùng
Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng
Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian”
“Lênh đênh tiếng hát kinh cầu
Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ
Trên cao tháp cũ nhà thờ
Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang”
“Em mười sáu tuổi tơ măng
Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu”
“Trong cơn chăn gối rã rời
Im nghe từng chuyến xe đời đi qua”
“Đường về không nhịp trùng lai
Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình"
“Nhìn lên thành phố không đèn
Âm u còn một màn đêm cuối cùng
Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng
Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian”
“Lênh đênh tiếng hát kinh cầu
Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ
Trên cao tháp cũ nhà thờ
Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang”
Lối gieo vần trong thơ 8 chữ cũng là một thể nghiệm mới lạ
của nhà thơ nữ:
“Em đợi anh về những chiều thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”
“Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay”
“Em đợi anh về những chiều thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”
“Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay”
Và cuối cùng là những vần thơ 5 chữ trong bài Lời rêu:
“Uống cùng nhau một giọt,
Đắng cay nào chia đôi
Chung một niềm đơn độc,
Riêng môi đời phai phôi.
Say dùm nhau một giọt!
Chút nồng thơm cuối đời.
Vướng dùm nhau sợi tóc,
Ràng buộc trời sinh đôi”.
“Uống cùng nhau một giọt,
Đắng cay nào chia đôi
Chung một niềm đơn độc,
Riêng môi đời phai phôi.
Say dùm nhau một giọt!
Chút nồng thơm cuối đời.
Vướng dùm nhau sợi tóc,
Ràng buộc trời sinh đôi”.
Người ta thường nói “lắm tài nhiều tật” hay “hồng nhan đa truân”. Ở Nguyễn Thị Hoàng có lẽ cả hai câu đều đúng. Trong số các nhà văn nữ nổi tiếng của Sài Gòn xưa, Nguyễn Thị Hoàng là người có nhan sắc nhất nhưng cuộc đời cũng nhiều sóng gió nhất.
***
Chú thích:
[1] Nguyễn Thị Hoàng
còn có bút hiệu Hoàng Đông Phương sinh ngày 11/12/1939 tại Huế. Đã theo học
trường Đại học Văn Khoa Saigon, đã cộng tác với các tạp chí Văn, Bách Khoa…
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng có hai quyển tiểu thuyết từng gây
sôi nổi trước năm 1975: Vòng tay học trò
và Tuổi Saigon. Ngoài văn xuôi, bà
còn làm thơ và in thơ (trước khi viết văn), đó là hai tập thơ Sầu riêng (1960) và Sau phút đam mê (1961). Sau Vòng
tay học trò còn xuất bản trên 30 tiểu thuyết trước 1975. Năm 1990 xuất bản Nhật ký của im lặng, cùng lúc là Người yêu của Đấng Trời (chưa xuất bản).
Tác phẩm đã xuất bản:
- Vòng tay học trò (1966)
- Trên thiên đường ký ức (1967)
- Tuổi Saigon (1967)
- Vào nơi gío cát (1967)
- Cho những mùa xuân phai (1968)
- Mảnh trời cuối cùng (1968)
- Ngày qua bóng tối (1968)
- Về trong sương mù (1968)
- Ðất hứa (1969)
- Một ngày rồi thôi (1969)
- Vực nước mắt (1969)
- Tiếng chuông gọi người tình trở về (1969)
- Vết sương trên ghế hồng (1970)
- Nhật ký của im lặng (1990)
·
Đọc lại
Vòng Tay Học Trò (1)
·
Đọc lại
Vòng Tay Học Trò (2)
[3] Cung Giũ Nguyên
(1909 – 2008) là một nhà văn, nhà báo người Việt gốc Hoa được biết đến với
những tác phẩm đa số viết bằng tiếng Pháp. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo
và đông con, học xong trung học tại trường Quốc học Huế những năm 1922-1927, ông
phải từ bỏ giấc mộng học trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội để đi làm việc.
Năm 1928 ông được bổ làm trợ giáo tập sự tại trường Nam Tiểu
học Nha Trang, nhưng đến đầu năm 1930 bị bãi chức, vì lý do chính trị. Sau đó
ông phiêu lưu vào Sài Gòn, Đà lạt, Huế, Nha Trang.
Năm 1936 cha của ông mất. Vì trách nhiệm đối với gia đình,
ông về lại Nha Trang và năm 1941 trở lại nghề dạy học. Ông đã dạy các môn Việt
văn, Hán văn, La tinh, Pháp văn, Anh văn, sử địa, kinh tế học, triết học, văn
học... ở các trường Kim Yến, Trường Dòng Thánh Giuse Bình Tân, La San,
Phanxicô, Collège de Nha Trang, Võ Tánh, Lê Quý Đôn...
Trong khoảng 1955-1975, ông làm hiệu trưởng trường Trung học
đệ nhị cấp Lê Quý Đôn, Nha Trang. Trong thời gian 1972-1975 ông là giáo sư thỉnh
giảng tại Đại học Cộng đồng Duyên hải, Nha Trang. Từ 1989 đến 1999, ông là giáo
sư thỉnh giảng môn ngôn ngữ và văn chương Pháp tại khoa Pháp văn, Trường Cao
đẳng Sư phạm Nha Trang.
Về mặt hoạt động xã hội, ông là một huynh trưởng nổi bật
thuộc thế hệ sáng lập ra phong trào Hướng đạo Việt Nam . Năm 1944, ông đảm nhiệm khoá
huấn luyện chót ở Trại trường Bạch Mã thay thế Trưởng Tạ Quang Bửu vì bận việc
riêng. Năm 1958, Trại trường Quốc gia Tùng Nguyên được thành lập tại Ðà Lạt
dưới quyền điều khiển của ông. Đây là nơi đào tạo hầu hết các trưởng của thế hệ
1958-1975.
Ông từng làm phụ tá Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo
quốc tế Gilwell, Anh Quốc. Đây là nơi huấn luyện các huynh trưởng Hướng đạo.
Cho đến năm 2007, ông đã 98 tuổi nhưng vẫn còn gắn bó với phong trào Hướng đạo
tại Việt Nam; hướng dẫn Toán Alpha và Bêta Hướng đạo Việt Nam tại Nha Trang.
Tác phẩm của Cung Giũ Nguyên:
·
Một người
vô dụng (1930)
·
Nợ văn
chương (1931)
·
Volontés
d'Existence (NXB France-Asie, Saigon, 1954)
·
Le Fils de
La Baleine (NXB Arthène Fayard, Paris, 1956) bản dịch tiếng Việt Kẻ thừa tự của ông Nam Hải, (Nguyễn
Thành Thống, NXB Văn học, Hà Nội, 1980).
·
Le Domaine
Maudit (NXB Arthène Fayard, Paris, 1961)
·
Le Boujoum
(1980)
Cung Giũ Nguyên
(Ảnh Wikipedia)
(Còn tiếp)
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người – Chương 4: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến
ngày xuống lỗ)!
NTH đa tình quá !
Trả lờiXóaAnh Chính ơi,
Trả lờiXóaAnh vui lòng viết về Tuý Hồng và Võ Phiến đi.
Cám ơn anh.
Đã có bài về Túy Hồng tại:
Xóahttp://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/11/nha-van-nu-truoc-1975-tuy-hong.html
(Anh bấm "Bài đăng cũ hơn)
Như vậy là đủ cả 5 nhà văn nữ: Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ và Trùng Dương.
Còn về Võ Phiến, xin hẹn vào một dịp khác.
Đã xem xong.
Trả lờiXóaCó anh chị em nào biết địa chỉ(nơi ở, số điện thoại)của nữ văn sỹ Nguyễn thị Hoàng không ạ?
Trả lờiXóaTôi nhận thấy miền nam trước 1975 quá tự do, tôi cũng đã từng đọc Nguyễn thị Hoàng hồi học sinh trung học, và hồi ấy cuốn "vòng tay học trò" cũng là sa đọa rồi, làm ru ngủ biết bao học trò trong khi đáng lẽ phài hướng dư luận vào lý tưởng quốc gia...thật buồn nhưng tôi biết làm sao???
Trả lờiXóaXin cám ơn ông Nguyễn Ngọc Chính, nhờ vậy tôi mới nhớ lại những tác phẩm văn học trước 1975 và đề nghị ông nên sưu tầm về Lệ Hằng, một tác giả nữ có nhiều tác phẩm với lối viết khá táo bạo gây nhiều tranh cãi thời ấy, theo tôi đó là lối viết có chút gì sa đọa, muốn gây chú ý từ nhiều phía. Phải nói thực là như vậy, nếu sau khi chiến tranh kết thúc và bạn là người ở lại quê hương...
Rất cám ơn những bài viết về Thầy Nguyên .Đã cho tôi nhớ lại những năm ở Nha Trang tại số 60 Hoàng Tử Cảnh và học tại trường Bán Công Lê Quý Đôn vì tôi là cháu cúa bác Cung Giũ Nguyên
Trả lờiXóa