Có một dạo, người ta đánh bạc ngay tại ngoài đường: đánh cá
bảng số xe chạy qua trước mặt với tổng số cao nhất là 9 nút và thấp nhấp là
‘bù’ (10 nút). Ngay cả những hiện tượng như mưa nắng trong ngày, dân Chợ Lớn
cũng có thể cá cược ăn tiền với nhau.
Theo tôi, xổ số cũng là một hình thức "cờ bạc có tổ chức" mặc dù trên
danh nghĩa ‘từ thiện’ như Trần Văn Trạch ngày nào vẫn thường hát: “Kiến thiết quốc gia, giúp đồng bào ta, xây
đắp bao người, dựng nên cửa nhà… Triệu phú đến nơi, chỉ mười đồng thôi, mua lấy
xe nhà, giàu sang mấy hồi…”.
Chúng tôi cũng may mắn sưu tầm trên mạng được tấm vé số loại 5-A6 mang tên “Tình mẫu tử” trên đó có ghi ngày xổ: 3/5/1975. Đây là vé số “không bao giờ xổ” vì Sài Gòn đã đổi chủ ngày 30/4/1975. Có nghĩa là tấm vé số cuối cùng này không có người trúng lô độc đắc 5 triệu đồng tiền VNCH hồi đó.
Chúng tôi cũng may mắn sưu tầm trên mạng được tấm vé số loại 5-A6 mang tên “Tình mẫu tử” trên đó có ghi ngày xổ: 3/5/1975. Đây là vé số “không bao giờ xổ” vì Sài Gòn đã đổi chủ ngày 30/4/1975. Có nghĩa là tấm vé số cuối cùng này không có người trúng lô độc đắc 5 triệu đồng tiền VNCH hồi đó.
Vé số "không bao giờ xổ"
Từ xổ số lại biến thể sang số đề, đây là hình thức cờ bạc rõ
nét nhất. Trước năm 1954, ở Sài Gòn - Chợ Lớn, có hai chỗ đánh bạc rất nổi
tiếng, đó là các sòng Kim Chung (Casino Cloche d'Or) và sòng Đại Thế Giới
(Casino Grande Monde). Trong số các trò chơi đỏ đen đó, có một trò gọi là Xổ số đề, tức là xổ các cặp số đã được
đề trên các tấm vé.
Mỗi vé có hai con
số, từ 00 đến 99. Cứ sau khi bán hết một đợt vé người ta lại "xổ", có
nghĩa là bắt thăm xem vé nào trúng và nếu trúng thì một đồng ăn bảy mươi đồng.
Như vậy là người tổ chức (nhà thầu hay nói khác đi là nhà
cái) thu lợi 30% mỗi lần xổ. Giả sử mỗi vé ghi giá 1 đồng thì thu được 100
đồng, nhà cái chỉ phải trả 70 đồng
cho người trúng và thu về 30 đồng tiền lời.
Khi thông báo số
trúng, để tăng thêm phần hấp dẫn, người ta treo những tấm bảng thật lớn đã cuộn
tròn sẵn giống như những cuộn lịch, treo thật cao trên các cây cột để mọi người
nhìn thấy. Chẳng hạn, xổ ra số 35 trúng, họ hô lên trên loa bằng cả tiếng Tàu
lẫn tiếng Việt: "Xám Xập Ửng... Ba
Mươi Lăm...". Lúc đó, một người ở trên cao dùng kéo cắt hoặc đốt sợi
dây cột tấm bảng mang số 35, dưới hai con số đó có kèm theo hình vẽ một con dê
đực, hai sừng cong lên cùng với chòm râu dê!
Vì sao có hình vẽ
con dê? Một số người giải thích vì người Hoa thời đó ít người đọc được các con
số dùng trong tiếng Việt, mà dân cờ bạc người Việt cũng có nhiều người dốt, một chữ cắn làm đôi cũng không biết. Do vậy, người ta
cẩn thận kèm theo mỗi con số là một hình vẽ, để ai muốn coi số cũng được mà nhìn hình cũng xong.
Ví dụ: số 35 họ
vẽ con dê, số 09 họ vẽ con cá lớn, số 11 họ vẽ con cá nhỏ, số 14 vẽ con chó, số
16 vẽ con bướm, v.v... Trong các chiếc vé cũng vẽ như vậy. Đây chỉ là những
hình vẽ vô tình, dùng lâu thành quen vậy thôi, chứ giữa con số 35 và con dê
không có liên quan gì đến nhau cả. Có thể cũng vì lẽ đó, kho tàng ngôn ngữ của
người Sài Gòn về sau có thành ngữ “35 dê”
để chỉ người đàn ông ưa tán tỉnh phụ nữ?
Kim Chung và Đại
thế giới đều có Xổ Đề mỗi ngày. Cứ mỗi chiều vào khoảng bốn, năm giờ, tuy kết
quả xổ đề không được thông báo trên đài phát thanh nhưng chỉ độ nửa giờ sau khi
đề xổ, người dân toàn thành phố đã biết đích xác đề xổ con nào qua ‘đài phát
thanh truyền miệng’. Đề vừa xổ, chỉ cần hai, ba ông đạp xích lô đi ngang là cả
một đường phố dài, kể cả những khu lao động trong các hẻm, đều đồng loạt biết
hai con gì được xổ trong ngày.
Ngày nay, số đề
dựa theo kết quả của xổ số và hầu như tỉnh nào cũng phát hành vé số nên người
ta có cảm tưởng cả nước đang đắm chìm theo thần đổ bác, quanh năm 365 ngày! Cứ
vào giấc chiều, gần tới giờ xổ số, tại một số đại lý hay các quầy bán vé số dọc
lề đường thường tập trung rất đông người. Kẻ đứng, người ngồi, xe dựng trên lề
có khi lan ra cả lòng đường gây trở ngại giao thông. Ai có trách, mặc kệ! Xe cộ
có bóp còi, họ cũng chẳng quan tâm. Bởi lúc ấy, họ chỉ tập trung vào kết quả...
xổ số!
Có thể nói, với
dân đã ‘lậm’ số đề, bất cứ mọi giấc mơ, mọi sự việc, mọi hành động trong sinh
hoạt thường nhật, đều có thể… ‘số hóa’, không chỉ một mà có khi còn suy ra cả
chục con số để đánh đề. Thấy tai nạn giao thông trên đường vội ghi số... xe để
đánh đề, gặp hỏa hoạn, cháy nổ hay các vụ việc có liên quan tới lửa thì đánh đề
số 27 - 67…
Mua vé số
Số đề chỉ là một
hình thức cờ bạc ‘tép riu’ trong khu Đại Thế Giới, tên Tây là Casino Grand Monde, một trong những sòng
bạc lớn nhất Đông Dương trong thế kỷ 20 do người Pháp lập ra vào năm 1937. Mãi
đến năm 1955 mới bị đóng cửa dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình
Diệm.
Trước khi Đại Thế
Giới xuất hiện, người Tầu thao túng việc bài bạc tại khu vực Chợ Lớn. Để giành
lại mối lợi này, chính quyền Pháp tại Nam Kỳ đứng ra bảo trợ và thành lập sòng
bạc Đại Thế Giới nhằm thu hút các con bạc khắp khu vực Saigon-Cholon. Hàng năm
chính quyền bảo hộ thu được nguồn thuế rất lớn từ sòng bạc này. Ngoài bài bạc,
Đại Thế Giới còn là tụ điểm ăn chơi, hút sách, trai gái nổi tiếng khắp cả nước
thời Pháp thuộc.
Đại Thế Giới được
người Pháp chính thức cho thành lập với các lý do: thà cho cờ bạc công khai, có
lấy thuế, còn hơn để kiểu cờ bạc lén lút nhưng tràn lan vừa thất thu thuế, vừa
xúc phạm đến quyền lực của chính phủ bảo hộ Pháp. Đồng lúc thành lập Đại Thế
Giới còn có sòng bạc Kim Chung ở khu vực Cầu Muối (nay là Khu Dân Sinh, phường
Cầu Ông Lãnh, Quận 1). Kim Chung có qui mô kém hơn, đối tượng chơi thuộc loại
bình dân, nên mỗi khi nhắc tới casino tiêu biểu của Saigon, người ta hay nói
đến Đại Thế Giới.
Sau 1975, đã có
một thời gian tôi ở tại đường Hàm Tử, Quận 5, nơi chỉ cách Đại Thế Giới ngày
xưa chừng vài phút đi bộ. Tôi thường dẫn các cháu ngoại đến Trung tâm Văn hóa
Quận 5 (số 105 Trần Hưng Đạo B, phường 6) để chơi các trò ‘thú nhún’ (trẻ con
ngồi trên những con thú có lò so nhún nhảy khi khởi động bằng điện). Tại đây
còn có công viên nước mang một cái tên gợi nhớ: Đại Thế Giới.
Đại Thế Giới ngày
xưa nằm trên đường Gallieni chiếm một khuôn viên rộng lớn của Trung tâm Văn hóa
ngày nay. Khu đất rộng mênh mông, vòng rào xây tường cao, cửa ra vào có bảo vệ
mặc đồng phục canh gác cẩn mật. Người ta ra vào tự do, nhưng không phải ai cũng
mạnh dạn bước vào, bởi muốn bước vào phải có tiền và bởi cái 'Sát Khí' của Thần
Đỏ Đen luôn vừa quyến rũ thiên hạ, lại vừa hù dọa mọi người.
Trên cổng lớn
sáng rực ánh đèn néon, hàng chữ Grand Monde như một lời xác nhận với mọi người dân Sài Gòn thời đó rằng nơi đây
là sòng bạc được nhà nước bảo trợ, cứ mặc tình mà sát phạt. Giấy phép hoạt động
là của nhà nước bảo hộ cấp, nhưng sòng bạc lại do tư nhân điều hành.
Casino Grande Monde xưa
trên đường Gallieni
(nay là Trần Hưng Đạo,
Chợ Lớn)
Ngay từ đầu khai
trương, chủ thầu là một tay đầu nậu casino, Lâm Giống, từ Hồng Kông đến. Sở dĩ
người Pháp cho các tay Hồng Kông trúng thầu vì họ hiểu rằng, chỉ những người
từng am tường về tổ chức sòng bạc tầm cỡ thì mới có khả năng đưa Đại Thế Giới
lên ngang tầm với các sòng bạc ở Á Châu.
Lâm Giống vốn
xuất thân từ các sòng bạc ở Macau, đã sành sỏi về tổ chức casino, do đó ông ta
đã rập khuôn từ mọi hình thức đến mọi mánh khóe. Cùng kéo sang ‘miền đất hứa’
Sài Gòn với chủ còn có những cô ‘hồ lì’, người đứng điều khiển cuộc chơi của
từng môn đỏ đen, theo cách gọi của người Trung Hoa. ‘Hồ lì’ lúc nào cũng xinh
đẹp và sành điệu, thừa sức làm vui lòng khách chơi, dù có bị thua cháy túi.
Ngay từ lúc mới
mở cửa, Đại Thế Giới đã thu hút ngay số khách đỏ đen ở mức kỷ lục: những tuần
lễ đầu có đến hàng ngàn người tới thử thời vận mỗi ngày, nhà chứa bạc thu vô
không dưới một triệu đồng (một triệu đồng bạc Đông Dương hồi đó hết sức lớn,
bằng bạc tỷ bây giờ). Tiền thuế nộp cho nhà nước cũng không ít, từ 200.000 sau
lên 300.000 và có lúc lên đến 500.000 đồng một ngày. Thế mà chủ chứa vẫn hốt
bạc nhiều hơn bất cứ ngành kinh doanh nào khác.
Khách chơi lúc
đầu còn giới hạn trong giới trung lưu, đến người nhiều tiền, lần hồi thu hút
tới những giới bình dân, cả phu kéo xe, phu bốc vác bến tàu, vì có đủ hình thức
chơi, từ hốt me, tài xỉu, đến ru-lét… Người chơi không cần phải động não nhiều,
và cũng không cần có nhiều vốn. Nhiều thua nhiều, ít thua ít, chỉ không đánh
mới không thua! Vậy mà Đại Thế Giới như có bùa, như ma túy gây nghiện, nó có
thứ ma lực lạ lùng càng lúc càng lôi cuốn người Sài Gòn như con thiêu thân
trước ánh đèn.
Đã xảy ra nhiều
cuộc chiến từ Đại thế giới. Cuộc chiến giữa khách chơi và nhà cái, cuộc chiến
giữa bản thân người chơi và gia đình họ, và cuộc chiến cực kỳ quyết liệt giữa
những thế lực để giành quyền chi phối sòng bạc.
Từ ngày Đại Thế
Giới mở ra, đã có không biết bao nhiêu thảm cảnh gia đình. Có người là công
chức cao cấp cao nhà nước, giàu sang tột bực, vậy mà chỉ trong vài tuần ‘làm
quen’ với Grand Monde đã nướng hết sản nghiệp vào đó, và tất nhiên là nướng cả
cuộc đời. Có những người vợ, những cô này bà nọ, chỉ vì ham vui, vào thử vài
lần rồi bắt bén vào tiếp và..... cuối cùng lột hết vòng vàng nữ trang, lấy cắp
cả tiền nhà, cúng sạch, và sau đó cũng cúng luôn cả cái ngàn vàng của mình!
Thời đó cầu Bình Lợi được xem là nơi kết liễu những cuộc đời bất hạnh, sau một
đêm cháy túi ở Đại Thế Giới....
Cả Sài Gòn và
vùng phụ cận, cả Nam Kỳ Lục tỉnh và cũng không thiếu người ở những miền xa của
đất nước đổ xô về Đại thế Giới lập lòe ánh sáng ma quái, để chơi, để khóc và…
để chết. Trong khi đó, một cuộc đổ xô khác, ở phía những thế lực muốn nắm Đại
Thế Giới, cũng đến hồi quyết liệt.
Đại Thế Giới như
rồng gặp mây khi Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, vị vua cuối cùng triều Nguyễn, được
người Pháp giao lại nguồn lợi như một món quà ân thưởng. Phòng Nhì Pháp sau khi
chiêu hồi Bảy Viễn (Lê Văn Viễn), thủ lĩnh Bình Xuyên, về thành đã gắn cho ông
lon đại tá.
Cựu hoàng Bảo Đại, vị vua
cuối cùng của triều Nguyễn
Theo hồ sơ về tỷ
phú Hoa kiều Lý Long Thân do Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa lập, hiện lưu trữ tại
Cục lưu trữ Việt Nam, thì để cầu thân với Bảy Viễn, Lý đã bỏ số tiền hơn 4
triệu franc để tổ chức tiệc chiêu đãi Bảy Viễn và đàn em tại hý trường Đại Thế
Giới. Sau đó, Lý còn đề nghị Bảy Viễn đứng ra thầu lại sòng bạc Đại Thế Giới
dưới sự hỗ trợ về tài chánh của chính mình (500 ngàn đồng Đông Dương một ngày)
và sự bảo trợ của Quốc trưởng Bảo Đại.
Năm 1951, Bảo Đại
đặt mua một chiếc Jaguar Mark II to đùng, phía trước mũi xe có gắn một con báo
Nam Mỹ bằng đồng. Đây là chiếc ‘con báo’ duy nhất có mặt tại Việt Nam trong
cùng thời điểm. Bảo Đại mua nó vì thích, sau đó dự định sẽ để dành làm quà sinh
nhật cho hoàng tử Bảo Long. Nhưng cuối cùng lại nổi hứng, ông đã đem tặng nó
cho viên tướng lục lâm Lê Văn Viễn, như quà mừng vì tay này đã thâu tóm được
sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, hàng tháng đem lại cho Bảo Đại một số tiền
cống nộp kếch xù.
Vào năm 1955,
nhằm thống nhất các lực lượng Quốc gia, cắt đứt nguồn tài trợ của Bảy Viễn cũng
như xóa bỏ lối sống đồi trụy tại đây, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh đóng
cửa Đại Thế Giới. Đầu năm 1955 đánh dấu ngày tàn của Grande Monde, khi ông Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh dẹp sòng bạc lớn nhất Đông Nam Á. Phần đông người Sài
Gòn thở phào nhẹ nhõm mỗi khi đi ngang qua nơi xưa kia vốn vừa là Thiên Đàng
vừa là Địa Ngục. Tuy nhiên, các đệ tử của Thần Đổ Bác chắc hẳn phải… buồn năm phút!
Ngày nay, Việt
Nam có một casino duy nhất tại Quảng Ninh mang tên Casino Đồ Sơn chỉ dành riêng
cho người nước ngoài. Đây là casino được tổ chức theo tiêu chuẩn quốc tế và
theo luật mới, muốn đầu tư vào casino phải có tối thiểu 4 tỷ đô cho một dự án.
Tại các khách sạn lớn ở Sài Gòn như New World, Equatorial, Duxton, Legend… giải
trí đỏ đen được tổ chức dưới dạng câu lạc bộ (club) trang bị các loại slot
machines để phục vụ nhu cầu khách quốc tế.
Ngày xưa, người
ta gọi những máy đánh bạc này qua một cái tên khá ngộ nghĩnh, One-armed Bandit, vì mỗi máy có cần gạt
để kéo. Bây giờ tiến bộ hơn, máy chỉ dùng toàn nút bấm. Không biết giới đỏ đen
đã có từ nào để thay thế cho ‘tướng cướp
một tay’?
Tác giả thử thời vận
với ‘Tướng cướp một tay’ ở Las Vegas
Các club đánh bạc
tại khách sạn chỉ hoạt động cầm chừng vì khách đến Việt Nam chủ yếu là khách du
lịch, nếu ghiền cờ bạc thì họ đến những casino ở Macau, Monte Carlo hay Las
Vegas chứ loại ‘tép riu’ như các club ở Việt Nam đâu có gì hấp dẫn. Trái lại,
người Việt ta vốn mang trong người dòng máu ‘đỏ đen’ nên nhìn các club trong
khách sạn sang trọng một cách… thèm thuồng.
Ông chủ các câu
lạc bộ cũng nhận thấy điều đó nên họ ‘xé rào’ để các con bạc Việt Nam vào nướng
tiền. Công an cũng thấy chuyện đó (nghề của chàng mà!) nên có những vụ đột kích
club đánh bạc tại khách sạn và cất được những ‘mẻ lưới’ lớn. Báo chí cho biết,
có con bạc đã hơn 40 lần ‘lạc’ vào đây, đổi tổng cộng trên 1,6 triệu đô ra
‘phỉnh’, ngoài vô số lần ‘cháy túi’, lần thắng cao nhất chỉ khoảng 7.000 đô!
Cấm trong nước
thì họ đem tiền ra nước ngoài chơi. Người ta còn ‘vượt biên’ sang Campuchia, gần
cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh) hoặc Xà Xía (Hà Tiên) để đánh bạc. Hơn 95%
người đánh bài ở đây là người Việt. Trong tương lai sẽ có hàng loạt nước láng giềng
mở casino và người Việt chắc chắn sẽ siêng đi du lịch nước ngoài hơn…
Hà Tiên Vegas Casino &
Hotel (Campuchia)
cách cửa khẩu Xà Xía ở Hà
Tiên (Kiên Giang) vài trăm mét
Huyện Bavet tỉnh
Svây Riêng (Campuchia) có tới 7 casino nằm gần nhau như hàng xóm nhưng chưa bao
giờ phải lời qua tiếng lại vì khách vào nườm nượp. Những cái tên như Sun City,
Full House, Le Macau, Las Vegas… vốn đã nằm sẵn trong lịch trình của hàng ngàn
người từ các tỉnh ở miền Nam đi thử vận đầu năm. Từ sáng sớm đến tối mịt, mọi
câu chuyện đều xoay quanh baccarat, rolex, xì dzách hay xập xám…
***
Từ năm 1932, Sài
Gòn đã có trường đua ngựa Phú Thọ nổi tiếng vùng Đông Dương và cũng là một
trong những ‘tử địa’ của dân máu mê cờ bạc. Dân chơi đua ngựa thuộc nằm lòng
câu hát ‘Đường vào trường đua có trăm lần
thua, chỉ một lần huề...’ và một tay chơi có thâm niên đã khẳng định: “Bắt độ ngựa mà chỉ tin vào may rủi thì...
không còn quần xà lỏn mà mặc!".
Trường đua Phú Thọ (1948)
có mặt cả lính Pháp
Ngựa đua tại Phú
Thọ được chia làm 4 hạng A, B, C và D, xếp theo tuổi và chiều cao của ngựa.
Ngựa nổi tiếng một thời phải kể đến những cái tên rất kêu như Đạm Phi Tiên, Đại
Anh Hùng, Long Sơn Hiệp, Nữ Thần, Mã Thượng, Thái Dương, Thoại Lan... Lại còn
có những ngựa mang tên những người đẹp như Lý Lệ Hoa, Dương Quý Phi…
Ngựa nổi tiếng
nhất lịch sử trường đua Phú Thọ có lẽ là Thoại Lan. Trong các năm 1970-1972,
Thoại Lan gần như không có đối thủ, và hiếm có khi về nhì. Cho đến năm 1973 khi
có đợt ngựa mới như Thuận Hùng, Hoàng Lộc, Astro Boy... Thoại Lan mới chịu
"nhường ngôi".
Trường đua Phú Thọ (1948) với người tham gia từ hạng ...
cá kèo
Trường đua Phú
Thọ là một xã hội thu nhỏ và khép kín. Trong cái cộng đồng đó, ông chủ ngựa
làm… ‘vua’ vì có khi cả 10 con ngựa trên đường đua đều cùng một chủ, việc phân
hạng nhất nhì đều nằm trong tay chủ ngựa từ trước cuộc đua. Rất hiếm ông chủ
không ‘làm độ’ vì trên thực tế nếu về nhất, chủ ngựa chỉ được thưởng vài triệu
đồng nhưng nếu có ‘móc ngoặc’ thì thu nhập sẽ tăng đến mức 10 lần, chưa kể
những quyền lợi ‘chính đáng’ khác từ phần trăm tiền vé và từ các mối quan hệ
khác.
Chủ ngựa dù không
muốn ‘làm độ’ cũng bị móc làm độ hoặc bị ép làm độ. Khi đã ‘làm độ’ thì phải
hết sức bí mật vì nếu để lộ, tiền thưởng trong vé, sẽ giảm xuống. Chẳng hạn như
ngựa Dương Quý Phi được mua 1.000 vé, nếu một người trúng sẽ được 1 triệu đồng,
nhưng nếu 10 người cùng trúng thì mỗi người chỉ còn 100.000 đồng. Cũng vì thế,
ngay cả cha con, anh em, họ hàng một khi ‘làm độ’ cũng phải giấu nhau.
Ở trường đua Phú
Thọ có cha con ông Bảy, một đại ca có máu mặt của khu Cây Da Xà trước năm 1975,
đã từng choảng nhau vì bố ‘làm độ’ mà con không biết, vẫn đánh cho ngựa của bố
đến nỗi phải chịu thua tan tác.
Cách làm độ như sau: có bốn ông chủ ngựa lớn đại diện cho các vùng Đức Hòa - Long An, Bà Điểm - Hóc Môn, Gò Vấp và CLB đua ngựa sẽ họp nhau để… ‘bàn về ngựa’. Con nào được cả bốn ông bầu chọn về nhất sẽ được gọi là ngựa “4 sao”. Nếu có một ông không đánh giá cao, con ngựa đó sẽ rớt xuống “3 sao”.
Cách làm độ như sau: có bốn ông chủ ngựa lớn đại diện cho các vùng Đức Hòa - Long An, Bà Điểm - Hóc Môn, Gò Vấp và CLB đua ngựa sẽ họp nhau để… ‘bàn về ngựa’. Con nào được cả bốn ông bầu chọn về nhất sẽ được gọi là ngựa “4 sao”. Nếu có một ông không đánh giá cao, con ngựa đó sẽ rớt xuống “3 sao”.
Nhìn vào “sao”
của ngựa, dân cá cược bắt đầu đặt tiền làm độ. Dân chơi lớn mua một lần vài
nghìn đến cả chục nghìn vé cho con ngựa mình chọn, mỗi vé mười nghìn đồng.
Đối với chủ ngựa, chỉ đầu tư nhiều vé khi có cơ sở để tin rằng ngựa của mình có
khả năng thắng ngược, song những tay độ lớn ít chơi với phòng vé hoặc mua ít vé
cho người ta khỏi để ý. Cốt tử là những trận đánh độ nảy lửa hàng trăm triệu
đồng, hàng tỷ đồng được dàn xếp kín đáo giữa những tay chơi lớn, đó gọi là… cá
lậu. Khi đã đầu tư số tiền khủng khiếp như vậy, các tay cá lậu bắt đầu dùng thủ
đoạn để thắng cuộc.
Để có được một
kết quả làm độ như ý, những đại gia ‘cá lậu’ tổ chức một hệ thống ngầm quy mô,
chặt chẽ với chủ ngựa, nài ngựa, thậm chí có cả sự móc ngoặc của một số trọng
tài trường đua. Ngoài trọng tài trên đường đua còn có trọng tài chuồng, kiểm
tra bước chuẩn bị xuất phát của ngựa. Nếu vị này không công tâm, những chiến mã
có thể bị ‘đứng chuồng’ (xuất phát chậm).
Trọng tài sẽ
quyết định nếu trọng lượng của nài nhẹ hơn quy định phải buộc đeo thêm chì.
Nếu móc ngoặc được với vị này, con ngựa chở nài nhẹ cân không bù chì hoặc bù
không đủ số lượng sẽ chạy nhanh hơn. Còn trọng tài trên đường đua sẽ xử lý các
hành vi phạm luật như: chạy cắt mặt, lấn đường, ép nhau, níu cương...
Trên đường đua,
ngoài việc trọng tài công tâm, một con ngựa thành công phụ thuộc vào 3 yếu tố:
đường chạy, khả năng của chính nó và tài năng của nài ngựa. Theo kinh nghiệm
của một số chuyên gia về ngựa thì nài ngựa giỏi đóng góp đến 80% chiến thắng.
Đối với những con ngựa hay thì việc chiến thắng là điều dễ dàng, nhưng ngựa thì
thường hay giở chứng, để điều khiển được con ngựa bất kham, điều cần thiết phải
có một nài ngựa giỏi.
Nài ngựa
Thường thì giới
bao cá lậu rất ít khi tiếp xúc được với nài ngựa, chúng chỉ thông qua chủ ngựa
hoặc chính người thân của nài như cha mẹ, anh em ruột thịt, dùng tiền mua chuộc
để họ tác động đến nài ngựa. Chính những tác động từ chủ ngựa, từ gia đình của
nài nên không ít nài ngựa đã có những biểu hiện tiêu cực làm thay đổi kết quả
trận đấu.
Ngoài việc mua
chuộc, lôi kéo, hăm dọa các chủ ngựa, trọng tài, nài... để làm độ, các ‘đại
gia’ trong làng cá độ lậu còn áp dụng nhiều thủ đoạn để hại ngựa nhằm giành
phần thắng.
Các chủ ngựa khi
làm độ muốn ngựa mình thua cũng áp dụng nhiều trò xấu với ngựa của mình như:
chích thuốc ngủ cho ngựa, phải là tay chuyên nghiệp mới làm được điều này vì
nếu canh thuốc không chuẩn, con ngựa chưa vào đường đua đã xỉu thì rất dễ bị
phát hiện và trừng phạt nặng theo luật đua; có ngựa còn bị chích ma túy, cho
uống thuốc xổ, bỏ đói...
Còn muốn ngựa
thắng thì người ta chích thuốc bổ, thuốc kích thích... Bởi vậy sau mỗi cuộc
đua, ngựa bị nghi ngờ có thể sẽ phải thử nước tiểu để rõ trắng đen. Cũng có
trường hợp chủ ngựa đã nhận bán độ, cố làm cho ngựa thua nhưng con ngựa do quá
sung vẫn phóng ầm ầm, lúc đó nài ngựa sẽ ghì cương cho nó chạy chậm lại. Theo
luật của thế giới ngầm, nếu đã nhận độ nhưng không ‘làm tròn trách nhiệm’ sẽ
phải bồi thường gấp 3, nếu ‘chống án’ sẽ bị xử theo luật giang hồ!
Nạn cá lậu hiện
chiếm 2/3 doanh số cá cược ở mỗi độ đua, một mặt gây thất thu ngân sách hoạt
động của trường đua, mặt khác gây phức tạp như làm cho các cuộc đua mất đi giá
trị đích thực của hoạt động thể thao, gây tâm lý bất ổn cho người làm nhiệm vụ
trọng tài, nài ngựa và cả chủ ngựa. Vó ngựa trường đua, đối với những
người ham mê cá độ, có sức quyến rũ chẳng khác gì ma túy!
Nài và ngựa trên đường đua
Cờ bạc là bác thằng
bần, thế nhưng lời răn đe đó hình như không có tác động nào đối với những
người trót mang trong mình dòng máu đỏ đen. Thời nào cũng vậy, hình như cờ bạc
là một con đường ngắn nhất để làm giàu đối với một số người. Có điều đó là một
con đường của ảo tưởng, của thân bại danh liệt và của thất vọng ê chề…
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
**********
4 Comments on
Multiply
cuuphansinh
wrote on Oct 12, '10
Cám ơn tác giả đã công phu cung cấp một cái nhìn tổng quát
về Cờ bạc ở VN! Nhưng, nói "đa số người VN..." có quá
không! Có lẽ nói "nhiều người VN..." thì đúng hơn?
nguyenngocchinh
wrote on Oct 12, '10
cuuphansinh
said “Nhưng,nói "đa số người
VN..." có quá không ! Có lẽ nói " nhiều người VN..." thì đúng
hơn?”
Có lẽ tôi hơi chủ quan khi viết 'đa số người VN...’. Xin đa tạ góp ý của bạn. Have a
good day!
nguoigiaonline
wrote on Oct 13, '10
nguyenngocchinh
said “Có lẽ tôi hơi chủ quan khi viết
'đa số người VN...". Xin đa tạ góp ý của bạn. Have a good day!”
Định bảo thế thì có người góp ý thay rồi, hì!
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa