Làm một cuộc khảo
sát về rượu trên toàn cõi Việt Nam
ta mới thấy nước mình nghèo thì nghèo thật nhưng lại rất giàu về khoản… rượu
chè! Này nhé, chót vót đỉnh núi miền thượng du Bắc Việt có rượu Táo Mèo, xuôi
đồng bằng Sông Hồng có rượu Làng Vân, vào Bình Định có Bàu Đá, ngược lên miền
Tây Nguyên có rượu cần, đến Long An có Gò Đen, tới Trà Vinh có Xuân Thạnh,
ngoài tận đảo Phú Quốc có rượu sim…
Bên cạnh những
rượu theo địa danh nói trên còn có vô số chủng loại rượu. Rượu thuốc ngâm lá
cây, rễ cây, rắn rết, hổ báo, và cả những thứ ‘độc’ như con bửa củi, tắc kè, hải
mã, bảo đảm… ông uống bà khen! Còn
một thứ rượu nữa mà chỉ có bậc đế vương như vua Minh Mạng mới có thể uống để nhất dạ lục giao sinh ngũ tử!
Hạng phó thường
dân thì làm sao kiếm đủ 6 đối tượng trong một đêm để ân ái? Mà tại sao lục giao lại sinh ngũ tử chứ không phải lục tử?
Nếu chỉ có một bà mà ân ái đến 6 lần trong một đêm để sinh ngũ tử thì chắc loại
rượu thuốc này ít người dám dùng, thứ nhất sợ phạm luật "sinh đẻ có kế hoạch",
thứ đến là một đêm sản xuất đến 5 nhóc tì thì những đêm khác phải nhịn thèm vì
hiểm họa nạn nhân mãn treo trước mặt!
Rượu Việt Nam trưng bầy tại
hội chợ
Sau này lại có
thêm rượu Tây cao cấp. Whisky thì có Remy Martin; Rhum thì có Buddelschiff;
Cognac thì Hennessy, XO; Champagne thì có Vin Mousseux rồi sau này còn có cả
Vodka Smiranoff hay Mao Đài từ phía các nước "anh em vĩ đại" Liên Xô và Trung
Quốc. Tóm lại, Việt Nam rượu gì cũng có, tùy thuộc vào túi tiền của bợm nhậu.
Rượu ngoại
Cũng vì thế đã có
không biết bao người thiệt mạng vì bia, rượu với những căn bệnh về gan, thận.
Cũng có không ít gia đình bị khốn đốn vì là nạn nhân, trực tiếp hoặc gián tiếp,
của tệ nạn nhậu nhẹt. Người ta có thể họp nhau nhậu ở bất cứ nơi nào,
bất cứ khi nào với bất kỳ lý do nào.
Hồi xưa tôi còn nhớ cứ mỗi độ xuân về, những cửa hàng phía
xung quanh chợ Bến Thành thi nhau quảng cáo để mời chào khách đi sắm Tết. Bên
cạnh những cái loa phát ra điệp khúc ‘cha cha cha Hynos’ rầm rộ quảng cáo kem
đáng răng có hình anh Chà nước da đen bóng với hàm răng trắng nhởn còn có tiếng
oang oang quảng cáo ‘khô nai Ban Mê Thuột, khô cá thiều Phú Quốc’. Đại khái như
“…nướng khô nai, khô cá thiều bên này
đường thì bên kia đường đem rượu ra uống vẫn thấy ngon!”
Nhậu đã đi vào cuộc sống của người Sài Gòn. Đồ nhậu thì
‘thượng vàng hạ cám’: cóc, ổi, me, xoài và thậm chí chỉ còn vài hột muối ớt
cũng đủ làm mồi đưa cay thêm vài xị. Nhậu theo kiểu sang trọng là các sếp, các
đại gia hay những kẻ vừa trúng ‘mánh’. Trên bàn nhậu rượu thịt ê hề, tiền bạc
không nghĩa lý gì với họ và mục đích chỉ là… mua vui.
Đối với dân Sài Gòn trước 1975, món chính chỉ có bia, hay còn
gọi là la-ve hoặc la-dze: la-ve chai lớn
Con Cọp (dung tích 61 centilitres) và la-ve chai nhỏ 33 (33 cl) của hãng BGI.
Nồng độ chai Con Cọp nhẹ hơn nồng độ chai 33 nhưng đa số dân chúng miền Nam
thích chai Con Cọp hơn vì vừa rẻ lại vừa nhiều gần gấp đôi so với chai nhỏ.
Nhãn hiệu bia Con Cọp
Đối với dân ‘sành
điệu’ thì không phải chai bia lớn Con Cọp nào cũng giống nhau: nhìn vào nhãn
hiệu cái đầu ‘ông ba mươi’, người ta thấy có hai cành hoa trái mà mới thoáng
qua mấy đấng mày râu khi đã ngấm hơi men, mắt lờ đờ, trông gà hoá quốc, cho đó
là nhành cây và trái dâu tây (strawberry) nhưng có ông lại cho là cành dây leo
và trái thơm (pineapple)!
La-ve BGI
Cây thơm mà thuộc
loại dây leo thì thật là động trời, chắc chỉ có đệ tử Lưu Linh mới tin như vậy. Thật ra thì cái nhìn của dân
nhậu không phải là sai nhưng lỗi ở nơi mấy ông họa sĩ vẽ nhãn hiệu in lên cái
chai: có đợt họ vẽ các nụ bông hốt bố (houblon) giống như trái dâu tây, có đợt
họ kéo trái dâu tây dài thêm ra giống như trái thơm! Và kể từ đó, giới ăn nhậu đồn
với nhau là la-ve Con Cọp có trái thơm ngon hơn la-ve con cọp có trái dâu!
La-ve trái thơm
rất ‘hiếm’, trong một két la-ve mua về may mắn lắm mới có được 1 hay nhiều lắm
là 2 chai ‘trái thơm’. Không biết BGI có cố tình thỉnh thoảng cho vào một vài
chai ‘trái thơm’ hay không.
Thời kỳ kiệm ước,
giới công chức, cảnh sát, quân nhân không đủ tiền mua la-ve ở các đại lý
(dépôt) có môn bài độc quyền mua bán la-ve của mấy chú Ba nên Quân Tiếp Vụ mới
đặt hàng riêng với BGI và cho ra đời La-ve
Quân Tiếp Vụ (nhưng không có cái đầu của con cọp) để bán rẻ cho Quân-Cán-Chính. Vỏ bia Quân Tiếp Vụ cũng sặc mùi nhà binh với khẩu hiệu nhắc nhở: "Quyết tâm chống độc tài, bảo vệ tự do dân chủ".
La-ve Quân Tiếp Vụ
Cái tên BGI
(Brasseries et Glacières de L'Indochine) khởi nguồn từ ý nghĩa ‘Nhà máy bia & nước đá Đông Dương’ của ông chủ Victor Larue, người Pháp. Cũng vì thế trên nhãn của BGI còn
ghi hàng chữ Pháp: Bière Larue. BGI thâm nhập miền Nam vào cuối thập niên
1900s với mục tiêu sản xuất nước đá, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, BGI bắt
đầu sản xuất bia và nước giải khát.
Nhà máy BGI nổi
tiếng nhất và lâu đời nhất
là Nhà máy bia Chợ Lớn và Usine
Belgique, sản xuất nước giải khát được xây dựng từ năm 1952. Sau khi Sài
Gòn đổi tên, chính quyền "cách mạng" tịch thu tài sản của chủ Pháp và Nhà máy bia Chợ Lớn trở thành Bia
Sài Gòn và Usine Belgique cũng
đổi thành Chương Dương, nhưng vẫn là
nhà máy sản xuất nuớc giải khát.
Mãi đến năm 1991
BGI Pháp mới trở lại Việt Nam và chịu nhiều thua thiệt của kẻ đến sau. Vào lúc
đó, đã có BGI, một công ty liên doanh giữa nhà nước và tập đoàn Castel’s, nên
BGI Pháp được khuyến cáo… nên ra miền Bắc để bắt đầu công việc kinh doanh. Dĩ
nhiên họ không chịu vì miền
Bắc không phải là thị trường quen thuộc của BGI và sau đó họ lặn lội xuống tận
Tiền Giang để thành lập một công ty liên doanh với tỉnh Tiền Giang.
BGI Tiền Giang
bắt đầu hoạt động vào năm 1993 với sản phẩm được phân phối rộng rãi trong khu
vực châu thổ sông Cửu Long. Thời gian đầu, BGI được sự đón nhận của người tiêu
thụ, nhờ vào di sản và danh tiếng. Tuy nhiên, vì nhu cầu vượt quá sự cung ứng
trong khi khả năng của công ty lại có giới hạn nên BGI lần lần xuống dốc. Sau
vài năm chịu đựng, BGI quyết định rút về Pháp và bán hết tài sản cho bia
Foster's của Úc và từ năm 1997 Foster's đã chính thức tiếp quản tất cả tài sản của
BGI. Một lý do khác cho sự thất bại của BGI Pháp có thể là hoạt động tiếp thị
kém hơn so với các loại bia khác.
Trở lại chuyện ăn
nhậu ở Sài Gòn. BGI không thể nào độc quyền phục vụ dân nhậu. Việt Nam nghèo gì
thì nghèo nhưng lại rất giàu về rượu và bia. Thế cho nên, cả nước đều nhậu, nhà
nhà cùng nhậu. Đi đâu cũng văng vẳng tiếng ‘Dzô,
Dzô!’… trăm phần trăm. Báo chí đã
trích dẫn lời một Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy đã ‘nói vui’ rằng, nếu cứ để
tình trạng “Sáng Băng Cốc, trưa Viêng
Chăn” (sáng uống cốc rượu, trưa chui vào chăn ngủ) thì chẳng mấy chốc hỏng
hết cán bộ!
Theo tôi, câu nói
đó không vui chút nào. Rượu tàn phá nhiều thế hệ đã qua và sẽ hủy hoại nhiều
thế hệ sắp tới. Liên Xô là nước nổi tiếng về số người nghiện rượu và thực tế đã
chứng minh, Liên Xô tụt dốc, một con dốc thẳng đứng cả về mặt chính trị lẫn xã
hội. Còn Việt Nam?
Vào thời bao cấp,
tại miền Bắc có rượu quốc lủi. Rượu
nhà nước độc quyền sản xuất được gọi là quốc
doanh cho nên rượu do tư nhân sản xuất ‘chui’ được gọi là quốc lủi, nói nôm na là rượu lậu. Có
người còn cho là cái tên quốc lủi hàm
ý gặp công an thì lủi cho nhanh
không thì mất cả chì lẫn chài!
Trong thời buổi
khó khăn, người dân miền Bắc phải ‘làm kinh tế phụ’ bằng cách nấu rượu y như
thời Pháp thuộc. Họ dùng các loại ngũ cốc có hàm lượng tinh bột cao như gạo tẻ,
gạo nếp, gạo lứt, ngô hạt, mầm thóc, sắn, hạt mít, hạt dẻ, hạt bo bo… để nấu
rượu. Phần bã hèm dành cho lợn vì nhà nào cũng nuôi lợn ‘tăng gia’, thế là một
công đôi việc!
Nấu rượu lậu thời Pháp thuộc
Nam vô tửu như kỳ vô phong, riêng tôi thì đành chấp nhận làm lá cờ
không gặp gió vì quả thật không biết nhậu, chỉ giỏi… phá mồi. Mới hớp độ một
hai hơi cũng đủ khiến mặt đỏ gay nên chỗ nào có nhậu vội vàng tránh xa vì không
muốn mang bộ mặt đỏ gay trên đường về nhà. (Uống lai rai với bạn bè tại nhà thì
không sao, có say thì cũng có sẵn giường để ngả lưng!)
Tôi nghĩ, giá
không bị cái tật ‘phản ứng’ với rượu chắc tôi cũng có thể… ai tới đâu cũng cố theo tới đó vì tửu lượng không đến nỗi nào một
khi đã đổi từ ‘mặt đỏ’ sang ‘mặt tái’ và cuối cùng là… thiếp đi trên giường.
Tôi cũng đã trải qua tình trạng ‘say lại’: say lần đầu ngủ một giấc, khi tỉnh
dậy lại say tiếp… mà lần ‘say lại’ còn ‘đậm đà’ hơn lần say đầu bội phần.
Rượu uống chẳng
bằng ai nhưng tôi lại có cái thú… sưu tầm rượu! Tôi có một tủ rượu và dĩ nhiên
đó không phải là loại ‘người mua không
uống nhưng người uống lại không mua!’ mà là người không biết uống mua về…
chưng tủ kính. Có những chai rượu nhỏ mua về làm kỷ niệm từ bên Áo, Ý, Đức… có
những chai loại night-cap thường thấy trong mini-bar tại các khách sạn hoặc
trên các chuyến bay quốc tế.
Bây giờ những
chai rượu đó vẫn nằm yên trong tủ rượu, chưa khui chỉ vì chủ
của nó không biết thưởng thức chất men mà chỉ biết trân trọng vẻ đẹp bên ngoài
của những cái chai và mầu của rượu. Hóa ra trong triết lý uống rượu vẫn có một
thứ lý luận lẩm cẩm là rượu còn dùng để chưng chứ không để uống!
Tủ rươu của tôi
Ngày xưa, cụ
Nguyễn Trãi trong bài Gia huấn ca đã
từng dạy:
Đua chi chén rượu, câu thơ
Thuốc lào ngon nhạt, nước cờ thấp cao
Không biết người
ta còn ai chịu nghe những lời cũ rích như vậy hay chỉ biết hứa với nhau trước
khi nhập trận nhậu: “Không say không về!”.
Để kết thúc bài
viết này, mời các bạn đọc bảng Nội quy Ăn
nhậu dưới đây do Vụ trưởng Vụ ăn nhậu Phổ thông & Bình dân ký ngày 21/03/2004 trong lúc đang... xỉn:
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân
ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự
tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa