Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một
“melting pot”, dễ dàng hòa nhập
với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng là
tiếng Anh. Có thể lấy bài hát Gia
tài của mẹ của Trịnh Công Sơn để giải thích sự vay mượn của ngôn
ngữ Việt: “Một nghìn năm đô hộ giặc
Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…”.
Như vậy, Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ ảnh hưởng, lần lượt theo
thứ tự thời gian là của Tàu, sau đó đến Pháp và cuối cùng là Mỹ
trong những năm chiến tranh gần đây nhất.
Trước hết, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa
mà ta thường gọi nôm na là Tàu
cùng những biến thể như Người Tàu,
Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú
và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số
5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
“…An-nam ta kêu là
Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng
hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Từ Ba-Tàu có cách
giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người
Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên,
từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần
từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...”.
“…Kêu Các-chú là bởi
người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng
không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là
anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy...”.
“…Còn kêu là Chệc là
tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép,
cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là
chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc
...”
Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19
được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất
xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm
nguyên Tự điển Việt Nam ,
chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc,
nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa.
Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị,
người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn
tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng
Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều
Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món
cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc
biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân
Tiều ở miền Nam
“chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải
chua... và nhất là món hủ tíu Tiều
Châu.
Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng
với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng
trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.
Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có
một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch
Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam
sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy,
chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của
người Hoa.
Đạo luật 53 cấm
ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền
địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô
Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế
trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của
người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính
đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000
người giữ lại Hoa tịch.
Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế
quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và
tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các
ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như
đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập
khẩu. Hoa kiều ở miền Nam
gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có
câu mỉa mai: “Sống phá rối thị
trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn
sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám
ma một cách rình rang.
Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu
ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng
Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng
Quan Thoại (Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ
tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử
dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không
đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói
tiều” thực ra là “nói tiếng
Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng
Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới
là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều,
được gọi là Ngũ Bang tại miền
Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người
Hẹ).
Trong lĩnh vực ẩm thực của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng
của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4
cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây,
lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú
tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải
Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu
). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.
Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta
có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong
xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu
Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number
one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị.
Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sàigòn Chợ lớn cũng có
lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ
tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm
Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.
Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu
vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô”
(bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
- Bàn số 3, bên Đông,
bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
- Bàn số 4, bên Đông,
hủ tíu không giá.
- Bàn số 1, bên Tây,
thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
- Bàn số 2, bên Tây,
ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của
mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn
danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn
như:
- Ông đầu hói mang
khăn rằn, một đồng hai cắc
- Bà hai mập, ba đồng
sáu cắc
- Ông chủ ốm nón nỉ,
tám đồng tư, hai bánh bao mang về
Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng
Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát
Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu... Tại đây còn phục vụ loại “ăn
chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương.
Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên
đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất
bổ dương khích dục đi đôi với các thứ
rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài
tửu (Mao Đài hoàn toàn không
có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp
đãi các nguyên thủ quốc gia).
Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên
được gọi là cơm thố, chỉ là cơm
trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy
để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có
người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ
cần chan chút hắc xì dầu (nước
tương đen) pha với dấm Tiều thêm
chút ớt là đã thấy ngon rồi.
Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những
tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên
hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu
hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu
rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố
cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá
lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?).
Cơm thố
Cơm chiên Dương Châu
cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên
nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức
ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ
hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá...
còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Ban không tin ư?
Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng
(sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người
người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp
chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn.
Có người bảo cơm
chiên Dương Châu và bánh bao
thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí
thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các
loại sơn hào hải vị như bào ngư,
vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn.
Các tiệm “cà phê
hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong
Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng
thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể
biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với
những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là
những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị,
Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.
Xe mì Tàu còn giữ đến ngày nay
(Ảnh chụp tại xe mì gần Hồ Con Rùa, Sài Gòn)
Ăn điểm tâm thì có mì,
hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen
nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn).
Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé
vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít
tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có
tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê
nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc.
Sang hơn thì gọi phé
nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều
sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc
có đường hiệu Ông Thọ (2)
hoặc Con Chim (3). Có người lại
dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi
là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn
thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Cà phê pha bằng vợt
(ảnh Trần Việt Đức)
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi
tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt
điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn
Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô
tả cách uống cà phê của người xưa: “… Người
cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây
là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa
số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống
đặc trưng của Sài Gòn xưa.
Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể
gọi một ly suỵt xủi và người
phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh
là “bất hiếu tử” vì dám cả gan
“đánh cha” nhưng nói lái lại là…
đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ
tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm
xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành
điệu còn “xổ” một tràng
“broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ
tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tầu dùng lâu hóa
quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai.
Chẳng hạn như ta thường lì xì
cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì
xì cho thầy chú (cảnh sát)
để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ.
Lạp xưởng (người
miền Bắc gọi là Lạp xường) là một món
ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào
dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên
trưng bày la liệt các loại lạp
xưởng, nào là lạp xưởng mai quế
lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế biến lạp xưởng
là nghề của các Chú Ba trong
Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt
heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để
chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn
có thêm chút bột màu.
Lạp xưởng
Lạp xưởng ở
Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của
người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh
pía còn được gọi là bánh lột da,
thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu
theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy.
Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh pía do một
số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước
đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang
tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có
nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân
làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành
phần khác như ngày nay.
Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các
thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối... Tại
Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông
nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được
xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.
Bánh pía Sóc Trăng
Vịt quay Bắc Kinh
và vịt quay Tứ Xuyên là những món
“đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn,
màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người
Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các
món này là ướp ngũ vị hương
rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm.
Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn
với bánh bao chay (không nhân)
nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh
hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với
khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có
khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm
heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay,
khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20
đồng… thịt quay…” thì Chú Ba
với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!
Thịt quay Chợ Lớn
Hết “ăn” giờ
lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ
vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài
Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có
nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái
đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng
có thể lập sòng tài xỉu nên
còn có tên là sóc đĩa.
Hột xí ngầu có sáu
mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp
sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng
số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu,
trên con số mười là tài. Sau khi chủ
sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài
hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng
thua trong tài xỉu tùy thuộc vào
tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị
thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất
xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám
(13 cây) có những thuật ngữ như mậu
binh (không cần binh cũng thắng), cù
lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín +
2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace),
nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit)
mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng
nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại - three of a kind), thú (two) hay thú phé (two
separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ
nhì đồng hoa (cùng một nước như
cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan
trọng là “làm” của người Tàu.
Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt
là mua ve chai, người miền Bắc
gọi là đồng nát.
Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ
nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn
xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ
Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt),
Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú
Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu
phú Sài Gòn xưa, http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/11).
Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng
ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm
bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ
đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung
dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ
phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia
đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ
tự do.
Cao cấp hơn là những xì
thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là
đại gia. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng
Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã
chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua
không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”.
Xì thẩu Lý Long
Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt
Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn
Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách
sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…
Xì thẩu Lâm Huê
Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều
tiền mặt nhất miền Nam , số
tiền ông có trong tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam
Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại
cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người
Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý
Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.
Xì thẩu Vương
Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người
có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ
búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận
dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam
không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp:
mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos!
Có rất nhiều xì
thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua
ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn - Chợ Lớn:
Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…;
Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện
độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội
địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng
giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài
Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).
Bên cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng gạo”. Giá gạo tại miền Nam là do công ty của bà ấn định,
chính phủ đã có lúc phải hợp tác với “nữ
hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Trong các buổi tiếp tân
lớn, bà Kim Dung luôn xuất hiện bên cạnh các mệnh phụ phu nhân.
Tạ Vinh là một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban Hành Pháp Trung
ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát trước chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo, gây xáo trộn thị trường”. Dân
chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm gạo”.
Ông Kỳ muốn cảnh cáo giới tài phiệt gốc Hoa không nên quá lạm dụng tình trạng
chiến tranh để làm giàu phi pháp, ông đã tổ chức một cuộc họp kín gồm đủ thành
phần đại xì thẩu tại Sài Gòn-Chợ Lớn
để cảnh cáo.
Pháp trường cát trước Chợ Bến Thành
(Còn tiếp)
===
Chú thích:
(1) Bình- nguyên Lộc là bút hiệu của Tô Văn Tuấn
(1914-1987) với cách viết tên rất cầu kỳ: có gạch nối giữa Bình và nguyên, nhưng không có gạch nối giữa nguyên và Lộc, chữ nguyên lại được viết với mẫu tự n không hoa. Nguiễn Ngu-Í trong “Sống và viết với... Bình-nguyên Lộc”,
gọi ông là “một trong tam kiệt của miền
Nam” bên cạnh Hồ Biểu Chánh và Lê Văn Trương. Bình-nguyên Lộc có khoảng 50
truyện dài, 1.000 truyện ngắn và 4 quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam
chỉ được in phần đầu, phần còn lại khoảng 800 trang viết tay coi như bị thất
lạc. Tác phẩm nổi tiếng phải kể đến Đò
dọc, Rừng mắm, Cuống rún chưa lìa…
(2) Sữa Ông Thọ
là tên gọi của hiệu sữa Longevity
trước đây thuộc hãng sữa Foremost. Tên được dùng trước năm 1975 với hình Ông Thọ trong Tam Đa (Phước, Lộc,
Thọ) để minh họa. Sau năm 1975, Vinamilk sử dụng lại tên Ông Thọ nên khi Foremost quay trở lại
Việt Nam kiện đòi lại thương hiệu nhưng thất bại nên phải dùng nhãn
hiệu Longevity.
Hiện nay Longevity
đã được chuyển nhượng cho Dutch Lady VN với cái tên Sữa đặc Trường Sinh.
(3) Sữa Con Chim
của hãng Nestlé (Thụy Sĩ) đặt chân đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1916. Trải
qua nhiều thập kỷ, các sản phẩm như Guigoz, Lait Mont-Blanc, Maggi đã trở nên
thân thuộc với các thế hệ người Việt. Nestlé trở lại Việt Nam vào năm 1990, và mở một văn phòng
đại diện vào năm 1993. Vào năm 1995, Công ty Nestlé Việt Nam (100% vốn đầu tư nước ngoài) được thành lập,
trực thuộc tập đoàn Nestlé S.A.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
***
4 Comments on Multiply
nguoigiaonline
wrote on Mar 18
Bài nào của anh cũng hay và đầy những công phu. Hãy khoan khoan
đừng vội viết chương cuối. Cảm ơn anh!
linalol wrote on
Mar 18
Nhắc lại chuyện thời xưa mà cứ như mới đâu đây: kem Hynos,
sữa Ông Thọ, gạo vứt ở sông sài Gòn, đại nạn chim cút, ống hút nước ngọt... tiệm
chạp phô... Cảm ơn anh ngochinh, lời văn thật cuốn hút, sinh động.
phantran53
wrote on Mar 18
Sữa Ông Thọ .... trước 1975 dân miền Nam còn gọi là ...."sữa Ông
Già"..! Đồng thời có câu chuyện hài là bé vắng mẹ .... phải bú bằng sữa
"ông già" - (ý nói sữa của cha).... :D
bayhoang79
wrote on Mar 19
Một bài viết rất hay! Cám ơn anh Chính đã dầy công nghiên
cứu những từ mà trước đây chúng tôi không để ý thường dùng hàng ngày!
Mong sao có thời gian rảnh để từ từ đọc lại hết:)
Trả lờiXóaR6a1t chi tiết và thú vị Thanks anh Chinh
Trả lờiXóahay và thú vị quá
Trả lờiXóaXin anh cho phép tôi đăng lại loạt bài "Ngôn Ngữ Sài-gòn" trên trang nhà của tôi ở: https://nuocnha.blogspot.com/
Trả lờiXóaCám ơn anh trước.