Hà Nội đối với tôi cũng chỉ là những bức tranh mờ nhạt trong
ký ức của một chú bé con. Tôi còn giữ được tấm hình chụp năm 1949 tại Hà Nội:
mẹ tôi bồng em Nguyễn Thị Dung, tôi đứng nhìn về một hướng khác bên cạnh Nguyễn
Ngọc Quang, đứa em trai sau này đã qua đời.
Theo lời kể của mẹ tôi, Quang là đứa con ‘xinh đẹp, bụ bẫm
nhất nhà’ nhưng chỉ tiếc một điều là em vắn số. Cũng có thể vì em vắn số nên mẹ
tôi luôn luôn sụt sùi kể lại những kỷ niệm về Quang, nhất là trong mỗi dịp giỗ
vào ngày 20 tháng giêng Âm lịch.
Theo như những gì mẹ kể, Quang chắc chắn sẽ có một tương lai
rực rỡ, hơn hẳn tôi, nếu như em không sớm lìa đời. Đây cũng là chuyện thường
tình, người ta luôn dành những tình cảm tốt đẹp nhất cho những người đã khuất,
nhất là những người chết trẻ khi mới 2 hoặc 3 tuổi.
Cho đến nay, những kỷ niệm về Quang qúa mờ nhạt trong ký ức
của một chú bé con như tôi. Có lẽ vì Quang từ giã cõi đời khi còn quá nhỏ. Tôi
còn mất một đứa em gái út tên Nguyễn Thị Ngọc Châu tại Ban Mê Thuột.
Em Châu mất đi khi hãy còn ẵm ngửa, mẹ tôi khóc sụt sùi cả
mấy tháng trời sau khi em mất. Não nùng nhất khi phải nghe những câu mẹ than
khóc: “Châu ơi, giờ này con nằm một mình
ngoài đó, không ai chăm sóc cho con…”.
Tôi nghĩ, những người chết khi còn quá trẻ như Quang, như
Châu, đều có một cuộc đời của những thiên thần. Trong sạch và thánh thiện trước
những diễn biến của muôn hình vạn trạng cuộc đời. Nhân chi sơ, tính bổn thiện.
Nói như vậy có nghĩa là ta gián tiếp thừa nhận những người tuổi thọ càng cao
thì càng nhiều tội lỗi do cuộc sống áp đặt. Vấn đề tùy thuộc vào cá tính và đạo
đức của mỗi con người để có thể tiết giảm được những tội lỗi do cuộc đời đem
lại.
Những tấm hình chụp năm 1952 tại Hà Nội cho thấy sinh hoạt của gia đình tôi. Tôi có chiếc xe hơi có thể nói là rất ‘hiện đại’ vào thời bấy
giờ. Trên tay lại có một chiếc đồng hồ, dù là đồ chơi, cũng là một niềm đáng tự
hào với một chú bé có lẽ chưa biết xem giờ! Thế đứng trong hình có thể do người
chụp tạo dáng chứ tôi không thể nào tin được một chú bé có kiểu đứng chống
nạnh, hai tay bên hông như vậy!
Em Dung có một con ngựa gỗ, hai tai ngựa là tay cầm để lắc
lư như cưỡi ngựa vì chân đế chuyển động theo hình vòng cung. Những loại đồ chơi
như vậy ngày nay đã biến mất, thay vào đó người ta sử dụng plastic để sản xuất
các mặt hàng đồ chơi đa dạng cho trẻ con. Hình chụp từ năm 1952 nhưng nếu quan
sát kỹ ta có thể thấy chiếc Velo Solex màu đen đã xuất hiện tại Hà Nội vào thời
điểm đó bên cạnh chiếc xe đạp và chiếc xe đẩy của trẻ con.
Qua tấm hình dưới đây, mẹ tôi đúng là một phụ nữ tiêu biểu
thời tiền chiến: tóc vấn, răng đen, cổ đeo chuỗi hạt ngọc bên cạnh bố tôi...
một mẫu người phải nói là ‘nghiêm nghị’ nhưng không kém phần... điểm trai!
Bố Mẹ tôi, hình chụp tại Hà Nội, không rõ ngày tháng
Ký ức về Hà Nội qúa mờ nhạt. Tôi nhớ mang máng nhà tôi ở phố
Lê Lợi, sau đó dọn về phố Trần Xuân Soạn, gần chợ Hôm. Trước ngày di cư vào Nam, gia đình tôi tạm trú tại một villa của một người bạn của bố ở phố
Hàng Bông Thợ Nhuộm, lúc đó bố tôi đã di chuyển trước vào Đà Lạt theo Ngự Lâm Quân của Vua Bảo Đại.
Bố tôi trong quân phục Ngự Lâm Quân |
Hàng Bông Thợ Nhuộm là một con đường xanh rợp bóng cây, đặc
biệt có những cây sấu thân to đến một người ôm không hết. Trưa hè lúc nào cũng
có tiếng ve kêu đến nhức óc trong khi trẻ con từ nơi khác đến leo trèo hái sấu
về nhà làm món sấu dầm nước mắm ớt hoặc nấu một nồi canh sấu với thịt nạc dăm,
một lọai canh giải nhiệt trong những ngày hè oi bức. Sau này khi vào Nam ,
thỉnh thoảng được ăn canh sấu khiến tôi liên tưởng đến hương vị của những ngày
ấu thơ.
Ấn tượng thời thơ ấu của tôi về các món ăn Hà Nội chỉ bàng
bạc vì lý do dễ hiểu là tôi còn qúa nhỏ để thưởng thức. Tuy nhiên, cũng còn đâu
đó những kỷ niệm được bố mẹ cho đi ăn kem Tràng Tiền để ‘giải nhiệt’ vào những
tối mùa hè oi ả. Mùa đông thì ăn ‘phá xa’ (đậu phọng) rang với húng lìu của ông
Tàu già bên hồ Hoàn Kiếm. Tôi còn nhớ món đậu phụng rang nóng, dòn của ông được
để trong một cái bao giấy có dạng hình chóp nón, đựng trong thùng có quai đeo
ngang vai. Tiếng rao "Phá Xa" của ông cũng rất đặc biệt, không thể
nào lẫn lộn được.
Hàng bánh tôm cũng thường ghé ngang khu phố tôi ở. Người bán
bánh tôm gánh một đầu là khung gỗ có chảo dầu để chiên bánh, phần sau đựng các
vật liệu như bột, khoai tây, tôm… Người bán chiên bánh bằng cái khuôn có quai
thẳng góc với khuôn để dễ cầm khi chảo dầu sôi. Bột bánh tôm màu vàng nghệ trộn
với khoai tây xắt lát hình que. Khi bỏ vào chảo dầu, bánh chín rất nhanh và sau
cùng người bán mới thêm một con tôm tươi. Thế là món bánh tôm đã sẵn sàng để ăn
với rau và chấm với nước mắm pha. Món bánh tôm nóng ăn vào mùa đông Hà Nội thật
tuyệt.
Tôi cũng đã có lần được chứng kiến cảnh người ta bơm nước ở
hồ Halais, đến khi nước gần cạn lòi ra những bộ xương người, không biết đó là
những người tự tử hay là những người bị các đảng phái thanh toán lẫn nhau, cụ
thể là Việt Minh và Quốc Dân Đảng. Cũng có thể đó là xác những ‘thành phần phản
động’ bị thực dân Pháp cho đi ‘mò tôm’! Dù là gì đi nữa, tại nơi đặt máy bơm
người ta cũng đặt thêm bát nhang để hương khói cho những người đã bỏ xác tại
đây.
Hồ Halais (ngày nay gọi là hồ Thiền Quang) được bao quanh bởi 4 con phố đầy cây xanh và bóng mát: Nguyễn Du, Trần Bình Trọng, Trần Nhân Tông và Quang Trung. Halais cũng chính là tên con đường mà ngày nay gọi là Nguyễn Du.
Hồ Halais (ngày nay gọi là hồ Thiền Quang) được bao quanh bởi 4 con phố đầy cây xanh và bóng mát: Nguyễn Du, Trần Bình Trọng, Trần Nhân Tông và Quang Trung. Halais cũng chính là tên con đường mà ngày nay gọi là Nguyễn Du.
Một hình ảnh không kém phần ‘ấn tượng’ về Hà Nội mà tôi còn
nhớ từ thời thơ ấu: cảnh ‘đổ thùng’. Hà Nội vào thời đó vốn không có nhà vệ
sinh tự hoại theo hệ thống cống ngầm như ngày nay nên mỗi gia đình có một thùng
đựng phân trong ‘chuồng chồ’ (cầu tiêu) và đến tối có những người đi ‘đổ
thùng’... Giai cấp thấp nhất thời đó có lẽ là những người phu đổ thùng nên bố
mẹ thường răn đe con cái: “Bé mà không
học thì lớn lên... đi đổ thùng!”.
Trường học đầu đời của tôi là trường dòng Puginier ở Hà Nội.
Trường mang tên Giám mục Puginier (1868-1892), có tên Việt là Bảo Lộc Phước, phụ
trách giáo phận Hà Nội và người thay thế ông là Giám mục Gentreau đứng ra xây
dựng một ngôi trường năm 1897 lấy tên người tiền nhiệm Puginier với số học sinh
ban đầu khoảng 400, gồm cả học sinh người Pháp lẫn người Việt.
Puginier là một cái tên rất được kính trọng vào thời Pháp
thuộc. Quảng trường Ba Đình trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có tên là "Quảng
trường Tròn Puginier" (Rond Point Puginier) hay còn gọi là "Quảng trường Puginier" mang tên vị Giám mục địa phận Hà Nội.
Cũng như Hà Nội nói chung, ký ức của tôi về ngôi trường
Puginier nói riêng rất mờ nhạt vì khi đó tôi còn quá nhỏ. Tôi học ở Puginier
theo chế độ "bán trú" (demi-pension), ăn trưa tại trường và đến chiều trở về nhà.
Tôi còn nhớ, nhà ăn của Puginier có một mùi thật đặc biệt, đến bây giờ mới có
thể giải thích được đó là mùi chiên xào thức ăn bằng bơ, khác hẳn với mùi dầu
mỡ ở nhà.
Trường được điều hành bởi các tu sĩ dòng La San, thành phần
giảng dạy gồm cả các sư huynh (frère) người Pháp lẫn người Việt. Buổi sáng
trước khi bắt đầu học phải đọc kinh, buổi trưa trước khi ăn cũng phải đọc kinh,
đến lúc bắt đầu học vào buổi chiều cũng lại đọc kinh. Nào tôi có hiểu gì lời
kinh, miệng thì ê a, lầm bầm theo những âm thanh mình nghe bên tai.
Bạn bè tại trường có những đứa nghịch như qủy sứ, nhất là
tụi ‘Tây lai’ mà chúng tôi thường nhạo: “Tây
lai ăn khoai cả vỏ, ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột”! Chúng ngang ngược
không kém gì các ông bố Tây thuộc địa của chúng cộng thêm tính tinh ma từ dòng
máu của mẹ là các Me Tây người bản xứ. Sự kết hợp dị chủng này đã tạo ra một
dòng sản phẩm ‘lai’ cá biệt của thời Pháp thuộc.
Bây giờ ngồi nghĩ lại, ngày xưa còn bé mình chê Tây lai ‘ăn
khoai cả vỏ’ đến khi trưởng thành trong ‘thời điêu linh’ sau 1975, đi học tập cải tạo về,
chính mình cũng ‘ăn khoai cả vỏ’, thậm chí còn không có vỏ mà ăn! Ghét của nào
trời trao của nấy là vậy.
Puginier là trường đạo nên nổi tiếng về kỷ luật và chính tôi cũng đã từng một lần trải qua một hình thức kỷ luật của nhà trường một cách
oan uổng. Một hôm, tôi còn nhớ, sau buổi học tôi thấy có một cái kéo của học
sinh nào đó để quên, thay vì giao chiếc kéo đó cho các sư huynh, tôi giữ lại
cho mình. Đến khi chủ nhân của chiếc kéo thấy tôi sử dụng liền báo cho thầy,
thế là tôi bị kết tội... ‘ăn cắp’. Ngoài việc bị đòn roi của các sư huynh, tôi còn
bị báo cáo về nhà cho phụ huynh, lại thêm một trận đòn nên thân, nhớ đời!
Tôi vào Nam
từ năm 1953 nên sớm gĩa từ Puginier, trường học đầu đời dù chỉ theo học tại đây
chưa đầy một năm. Đến năm 1954, tất cả các trường La San ở miền Bắc được chuyển
vào Nam , học sinh các trường
này tùy vị trí định cư mà theo học các trường đang có trong Nam . Riêng học sinh các trường
Puginier ở Hà Nội, trường Thánh Giu-se ở Hải Phòng được theo học ở trường
Taberd, Sài Gòn.
Tôi còn qúa nhỏ để biết công việc của bố, chỉ biết đại khái
bố tôi làm việc tại bót Hàng Trống trong ngành cảnh binh tại Hà Nội. Bố tôi là
một ông ‘cẩm’ (commissaire) tại đây. Cho đến ngày gia đình tôi chuẩn bị vào Nam
năm 1953, khi đó theo tôi biết, bố tôi đã chuyển từ ngành cảnh binh sang Ngự Lâm Quân (NLQ) tức lực lượng bảo vệ Đức Quốc Trưởng Bảo Đại tại Đà Lạt, nơi
được mệnh danh là Hoàng triều Cương thổ.
Bố tôi tại bót Hàng Trống
Sau khi bị thất thủ ở mặt trận Điện Biên Phủ, Pháp phải ngồi
vào bàn hội nghị ở Genève và kết quả là hiệp định chia đôi đất nước ra đời.
Trong hiệp định này Pháp và Việt Minh đã đồng ý lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới
giữa 2 nước Việt Nam .
Hiệp định Genève được ký kết ngày 20/7/54.
Việt Minh tiếp thu bót Hàng Trống
Tại miền Nam, Chính phủ của ông Ngô Đình Diệm, được Quốc
Trưởng Bảo Đại cử làm Thủ tướng, ra thông cáo: ai muốn di cư vào Nam thì đi ghi
tên và sẽ được giúp đỡ để đi. Người Hà
Nội xôn xao hẳn lên. Cuối tháng 7/54 một số bàn giấy ghi tên di cư được đặt ở
các góc đường phố chính Hà Nội.
Chợ trời nhan nhản mọc ra tại Hà Nội. Người ta bán tống bán
tháo những cái gì mà họ không muốn mang theo, những thứ mà họ nghĩ là không cần
thiết ở nơi định cư mới: sách cũ, quần áo cũ, chén bát, giường tủ, bàn ghế...
lỉnh kỉnh đủ thứ, từ "thượng vàng" đến "hạ cám".
"Chợ trời" Hà Nội những ngày trước khi di cư vào Nam
Theo Hiệp định Genève, người dân có một thời gian 100 ngày
để chọn cho mình miền Nam hay miền Bắc. Nhưng lúc ấy, không có ai tự nguyện từ
miền Nam chạy ra miền Bắc, trừ những thành phần được mệnh danh là ‘tập kết ra
Bắc’. Trong khi đó, hàng triệu người dân đã gồng gánh vào Nam để lại mồ mả ông bà. Vào đến
Sài Gòn, những người di cư được phát 12 đồng một ngày, trong khi một tô phở ở
Sài Gòn lúc đó khoảng 5 đồng, đĩa cơm gà cũng đến gần 10 đồng!
"Tàu Há Mồm" (LST) chở người di cư vào Nam
Gia đình chúng tôi vào Nam từ cuối năm 1953, trước đợt di
cư chính thức sau tháng 7/1954. Bố tôi chuyển vào miền Nam trước và gia đình tôi sau đó
mới vào Đà Lạt bằng phi cơ quân sự cùng với những gia đình khác trong lực lượng
NLQ. Sau này tôi mới hình dung ra được tình hình chính trị vào giai đọan kết
thúc chiến tranh với trận Điện biên phủ giữa thực dân Pháp và lực lượng kháng
chiến của Việt Minh.
Hải quân Mỹ giăng biểu ngữ trên tàu
chào đón những người di cư vào Nam
Điện biên phủ là một cuộc chiến kéo dài suốt 56 ngày đêm tại
lòng chảo nằm giữa cánh đồng Mường Thanh bồi đắp bởi con sông Nậm Rốm với các
địa danh đã đi vào lịch sử như Đồi A1, hầm De Castre...
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được người Pháp chia làm 3
phân khu: (1) Phân khu Bắc gồm đồi Him Lam, đồi Độc Lập, bản Kéo; (2) Phân khu
Nam gồm có trận địa pháo và sân bay Hồng Cúm; (3) Phân khu trung tâm nằm giữa
cánh đồng Mường Thanh, đây là phân khu mạnh nhất, tập trung 2/3 lực lượng. Có
hầm De Castre, sân bay Mường Thanh, các cứ điểm đồi: A1, E1, C1, D1... tên các
đồi được đặt lúc bấy giờ là chữ đầu tên các cô gái đẹp, hoa hậu của Pháp thời
bấy giờ.
Bộ đội Việt Minh tại Điện biên phủ
Mỗi cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng, có hàng rào
thép gai, có bãi mìn, có hầm cố thủ. Riêng hầm De Castre và đồi A1 còn có đường
hầm xuyên qua lòng sông Nậm Rốm để có thể tiếp viện cho nhau khi cần. Hầm gần
sân bay Mường Thanh còn có mục đích để phòng khi thất trận tướng De Castre có
thể nhanh chóng rút lui bằng máy bay.
Tổng số lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ lên tới 16.200 quân
nhưng yếu điểm của Pháp là chủ quan, các cứ điểm đều bị cô lập, hơn nữa, đường
vận chuyển tiếp tế duy nhất chỉ bằng đường hàng không. Người Pháp mắc sai lầm
vì cho rằng Việt Minh không thể vận chuyển đạn dược lên Điện Biên vì không có
lực lượng không quân.
Thu Đông 1953-1954, công việc chuẩn bị cho chiến dịch đã
hoàn tất và Việt Minh huy động toàn dân tham gia phục vụ cho chiến dịch Điện
Biên Phủ. Dân công từ các hướng tiến về Điện Biên Phủ như thác nước, họ thồ
lương thực, đạn dược lên Điện Biên. Vận
chuyển một quãng đường dài, khó khăn và gian khổ, đường núi đèo dốc hiểm trở,
dân công khoẻ nhất cũng chỉ thồ được khoảng một tạ gạo, khi lên đến nơi thì đã
ăn hết một nửa và lại quay về thồ tiếp.
Bom đạn của Pháp trút xuống, biết bao người đã hy sinh. Khó
khăn nhất là công việc kéo pháo, những khẩu pháo nặng đến vài tấn do Trung Cộng viện trợ đã được kéo lên Điện Biên vượt qua bao đèo cao, vực thẳm khiến Pháp
phải đi từ bất ngờ đến thất bại. Việt Minh hy sinh, tổn thất cũng rất nhiều
nhưng đã thành công trong việc thu hẹp vòng vây, sân bay Mường Thanh bị bao vây khiến đường hàng không của Pháp không thể hoạt động.
Sân bay Mường Thanh bị vô hiệu hoá, đường vận chuyển duy
nhất của Pháp không còn và nguy cơ thất bại đến gần. Pháp chỉ còn cách hỗ trợ
Điện Biên bằng các cánh quân quân nhảy
dù, trong khi đó lương thực, thuốc men, đạn dược cũng được tiếp tế bằng cách
thả dù. Tuy nhiên, phi cơ không dám bay thấp vì hỏa lực dưới đất khiến việc thả
dù không chính xác.
Trong đợt tấn công này, Việt Minh lần lượt chiếm được các
đồi E1, D1, C1... trừ đồi A1. Việt Minh chuyển từ chiến thuật ‘đánh nhanh thắng nhanh’ sang chiến thuật
‘đánh chắc tiến chắc’. Người Pháp chủ
quan nên không thể nào ngờ pháo binh Việt Minh đã bố trí những khẩu pháo 105 ly
trên các sườn đồi nhìn xuống thung lũng. Pháo 105 ly góp một phần không nhỏ cho
chiến dịch Điện Biên tuy có nhược điểm là rất nặng và bắn một thời gian là nòng
pháo nóng đỏ, phải chờ cho nguội rồi tiếp tục bắn tiếp.
Pháo binh Việt Minh trên đường vào Hà Nội
Cuối cùng Việt Minh quyết định cho nổ tung cả quả đồi
bằng một tấn thuốc nổ. Họ đào hầm vào giữa đồi A1 để đặt bộc phá với khoảng
500m tiến đến đồi A1. Đào đường hầm cũng vô cùng khó khăn, bộ đội phải đứng
hàng dài từ ngoài vào trong để quạt không khí từ ngoài vào. Không khí rất
thiếu, có người chỉ vào xúc được vài xẻng rồi bị ngất nên phải đưa ra ngoài.
Đào đến đồi A1, đến nơi có thấy đá và nghĩ đã đến tâm của
quả đồi nhưng lại là móng nhà của một người Nhật đã từng xây dựng trên đó trước
khi Pháp đến. Số bộc phá dự trù phải 1 tấn nhưng dù có 500 kg thuốc nổ lấy được
từ Pháp nhưng vẫn chưa đủ số lượng. Tuy nhiên, tướng Giáp vẫn quyết định đánh.
Các đơn vị Việt Minh sẵn sàng chuẩn bị để sau khi nổ sẽ ồ ạt
xuông lên. Tuy tất cả đã không đúng như dự định, hố bộc phá cách hầm cố thủ
đến 30m, hầm vẫn còn nguyên vẹn nhưng Việt Minh cũng đã chiếm được đồi
A1 vào 4 giờ 30 phút chiều ngày 6/5/1954.
Chiều ngày 7/5/1954 Việt Minh vượt qua cầu Mường Thanh, tiến
đến hầm De Castre, bịt kín 2 cửa hầm. Tướng De Castre đã hạ lệnh cho tất cả đầu
hàng, tiến ra khỏi hầm với chiếc cờ trắng giữa hai hàng súng của Việt Minh. Hai
ngày sau, toàn bộ quân Pháp còn lại ở Điện Biên đều trở thành tù binh.
Lễ hạ cờ "Tam Tài" tại Hà Nội
Một lần nữa, binh thư ‘lấy thịt đè người’ đã trở thành một
bài học lịch sử trong cuộc kháng chiến. Quân Pháp ở Điện Biên Phủ chỉ có 16.200
người, trong khi lực lượng Việt Minh gồm bộ đội và dân công có số lượng vượt
trội nên đã tràn ngập chiến trường.
Về mặt quân sự, người Pháp đã hoàn toàn thất bại ở Đông Dương nhưng, xét về khía cạnh nhân bản, hàng trăm ngàn sinh mạng người Việt đã
phải nằm xuống tại Điện Biên. Chiến tranh, dù thất bại hay thành công, đều có
những cái giá quá đắt của nó.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 1: Thời thơ ấu)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
***
2 Comments on Multiply
linalol wrote on
Nov 27, '11
Cám ơn anh. Bài viết đã giúp hiểu hơn về những năm tháng cũ.
130353 wrote on Dec
21, '11
Cám ơn tác giả
Bài hay nhưng dài quá ! Tìm mãi mới thấy cửa để viết com.... Chỉ cho mình cách tạo : blogspot nhé, cảm ơn nhiều.
Trả lờiXóaHôm qua mình đã Còm....cho bài này rồi mà nay biến đâu mất tiêu rồi ?
Trả lờiXóaMình đã tạo đựoc blog nhưng chưa biết cách sử dụng, mong các bạn xa gần giúp đỡ .
Xin anh cho phép được làm Hồi Ức Một Đời Người thành audio và sẽ phổ biến trên các audio truyện forum .
Trả lờiXóaXin anh cho biết ý kién .
Cảm ơn anh .
Thật tình tôi vẫn chưa hiểu rõ cách làm audio Hồi Ức Một Đời Người như thế nào về phía tác giả. Anh có thể nói rõ hơn về chi tiết được không?
XóaĐọc toàn bộ 9 chương của anh . Chia ra làm 9 files mp3 upload bằng host như Mediafire, lấy ̣9 links post vào diễn đàn audio: http://www.hotmit.com/diendan/viewforum.php?f=17 , tạo 1 thread tương tự như vầy http://www.hotmit.com/diendan/viewtopic.php?f=17&t=125756 .
XóaAi muốn nghe bấm vào link download về máy để thưởng thức hồi ức của anh.
Người đọc không phải tôi mà là những cao thủ trong forum, nam nữ với các giọng đ̣oc và kỹ thuật khác nhau , họ phải dùng vài software để làm . Tôi chỉ xin phép rồi mời họ đọc thôi . Nếu anh đồng ý cho luôn chương 7 thêm phần hấp dẫn nha .
Trên nguyên tắc, tôi đồng ý việc anh (chị) làm audio Hồi Ức Một Đời Người. Khi nào xong nhớ báo cho tôi biết để thưởng thức với. Xin cám ơn trước.
XóaXin anh luôn chương 7 thêm phần hấp dẫn nha .
Trả lờiXóaCảm ơn anh