Có người gọi cuộc chiến vừa qua là “nội chiến”
giữa hai miền Nam-Bắc nhưng, theo báo chí phương Tây, đó là “cuộc
chiến tranh Việt Nam” hay nói một cách khác là “cuộc đối đầu giữa
hai phe”, một bên là Tự do gồm Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và 5 nước
Đồng minh (gồm Australia, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philipin) và
một bên là Cộng Sản gồm Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Liên Xô và Trung
Quốc.
Tinh thần của bài viết này không bàn đến việc
“đúng” hay “sai” của cuộc chiến mà chỉ xoáy quanh những ảnh hưởng
của nền văn hóa Mỹ đối với ngôn ngữ Việt trong suốt 30 năm chiến
tranh.
Nước Mỹ còn được gọi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (cờ hoa).
Danh xưng này đã xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ
thứ 19 qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ”.
Vũ Trọng Phụng trong Vỡ đê, xuất
bản năm 1936, có đoạn viết: “…Dung
tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu
xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi…”.
Nguyễn Công Hoan trong Nhớ
và ghi về Hà Nội giải thích: “…Đèn
Hoa Kỳ là đèn của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải
làm đèn cho người mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard
Oil Company of New York ),
cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell.
Bất cứ ở thành thị hay
nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái
lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ.
Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có
xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng... Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ
thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên
quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...).
Royal Dutch Shell (người bình dân gọi là hãng dầu “con
sò”) đã thực hiện một chiến dịch “tiếp thị” ngoạn mục là “biếu
không” đèn Hoa Kỳ cho người Việt
vốn chỉ quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng
dầu hỏa. Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi
vào đời sống của người Việt thì cũng là lúc mọi người làm quen
với việc dùng dầu hỏa để đốt đèn.
Nhãn hiệu Shell lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1891 qua
logo “con sò” trên thùng dầu hỏa mà Marcus Samuel và các cộng sự chuyển đến
vùng Viễn Đông. Nhất Thanh trong Đất
lề quê thói (1968) giải thích thêm: “Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và
bán (...). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu
chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo; không
rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ;
ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào”.
Bức tranh "Đèn Hoa Kỳ" của họa sĩ Bùi Xuân Phái
Như vậy, thuật ngữ “đèn
Hoa Kỳ” (còn gọi là đèn “hột vịt” tại miền Nam), đốt bằng dầu
hỏa (còn gọi là dầu lửa hay dầu hôi), đã xuất hiện từ rất lâu,
trước khi có cuộc Chiến tranh Việt Nam. Người ta còn dùng từ ngữ dầu Tây để gọi dầu hỏa khi mới du
nhập vào Việt Nam. Ngày xưa, loại dầu này được đựng trong thùng sắt
tây như trong bức tranh Bán dầu Tây
của Henri Oger năm 1909 (1). Loại thùng sắt này sau khi đựng dầu được
tái chế thành thùng gánh nước hoặc cắt ra làm các vật dụng khác
như đồ chơi cho trẻ em bằng thiếc.
Tranh khắc “Bán dầu tây” của Henri Oger
Một trường hợp tiếng Anh khác đã du nhập vào Việt
Nam từ lâu là trò chơi của trẻ con: “Oẳn
tù tì” dịch từ “One, Two, Three”.
Hầu như mọi người Việt đều đã từng ra cái búa, cái kéo hoặc cái
bao sau khi đọc câu “Oẳn tù tì. Ra
cái gì? Ra cái này!”. Hai người chơi và có một trong 3 lựa chọn,
cái búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao và cái bao lại
bao được cái búa.
Về nặt giáo dục, tiếng Anh du nhập miền Nam qua hai
thời kỳ, dưới hai dạng ngôn ngữ: tiếng
Anh của người Anh (British English) và tiếng Anh của người Mỹ (American English). Thời Đệ nhất
Cộng hòa (1955-1963), tiếng Anh song song với tiếng Pháp, được chọn
làm sinh ngữ chính và phụ, tùy theo sự lựa chọn của học sinh từ
bậc Trung học (lớp Đệ thất trở lên). Tài liệu giảng dậy tiếng Anh
vẫn lệ thuộc vào chương trình của người Pháp nên chịu ảnh hưởng của
British English (còn gọi là Ăng-lê – Anglais). Một trong những sách học tiếng Anh phổ biến trong
thời kỳ này là bộ L’Anglais Vivant
của nhà xuất bản Hachette (Pháp).
L’Anglais Vivant
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) là thời thịnh hành của American English tại miền Nam .
Điều này cũng dễ hiểu vì sự có mặt của quân đội Mỹ trong cuộc
chiến tranh Việt Nam (2). Vào giai đoạn này, người ta bắt đầu sử dụng những
sách giáo khoa theo trường phái American
English như English for Today, English 900, American Streamline… Ngôn ngữ Sài Gòn xưa chịu ảnh hưởng sâu
đậm của tiếng Mỹ trong thời kỳ này và có những vay mượn rất lý
thú.
OK (okay) có lẽ
là một từ nổi bật nhất trong tiếng Mỹ được sử dụng rộng rãi tại
miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Một số người cho rằng từ này
bắt nguồn này bộ tộc da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ. Chữ “okeh” của người Choctaw có nghĩa tương tự như từ OK của người Mỹ. Tuy nhiên, cũng có
rất nhiều tranh cãi về thuật ngữ này. Theo chuyên gia ngôn ngữ Allen
Walker Read, OK là dạng viết ngắn của cụm từ “all correct”. Những người khác thì cho rằng OK là dạng chữ tắt của các từ Hy Lạp có nghĩa là mọi thứ đều ổn
cả. Không phải ai cũng đồng ý với những giải thích này nên kết luận hãy
còn bỏ ngỏ.
Tại miền Nam, còn phát sinh từ ngữ OK Salem, một từ ghép thường được
dùng bởi giới bình dân, ít học như gái
bán ba (bar), dân xích lô hoặc trẻ đánh giày. Một hình ảnh phải
nói là rất xấu trên đường phố thời đó: trẻ con thường chạy theo các
chú GIs (Government Issues – ám
chỉ lính Mỹ vì dùng đồ chính phủ cấp phát) để chìa tay xin thuốc
lá hay kẹo chewing-gum (kẹo cao
su)… miệng thì OK Salem rối rít.
Thuốc hút Salem có vị bạc hà (menthol), rất thịnh
hành khi lính Mỹ đến Việt Nam, họ mua từ PX (Post Exchange – một
hình thức Quân tiếp vụ, chỉ bán
cho quân nhân Hoa Kỳ) và tuồn hàng ra thị trường chợ đen (black market).
Người Sài Gòn chê Salem là loại thuốc dành cho… phụ nữ, thuốc dành
cho đàn ông “sành điệu” phải kể đến Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris,
Camel, Winston…
Salem được giới ăn chơi Sài Thành “chiết tự” thành Sao Anh Làm Em Mệt trong khi Pall Mall
được giới lính tráng biến thành cụm từ Phải Anh Là Lính, Mời Anh Lên Liền… Có điều thuốc Salem
tại Mỹ được phát âm là “xê-lầm” nhưng khi sang đến Việt Nam lại biến
thành “xa-lem” nên nếu có sang Mỹ mà hỏi mua thuốc “xa-lem” chắc chắn
người bán sẽ lắc đầu quầy quậy!
Thuốc lá Salem
Number one cũng
là một cụm từ được dùng thường xuyên tại miền Nam với ngụ ý… số dzách hay số một. Người bình dân dùng number one thay cho good
chẳng hạn như trong câu tiếng Anh “bồi”: “You number one GI!”. Phản nghĩa với number one sẽ là number ten,
hoặc tệ hơn nữa là “nâm-bờ ten tháo
giường” được Việt hóa từ “number
ten thousand” (số mười ngàn). Ai dám bảo là dân Việt không có óc
khôi hài?
Cao bồi là
thuật ngữ đã đi vào ngôn ngữ miền Nam khi hàng loạt các loại “phim miền Tây” (Western movies) hay
còn gọi là “phim cao-bồi”, được
chiếu tại các rạp xi nê. Cowboys
vốn là những chàng trai chăn bò, có người hành động một cách nghĩa
hiệp “trừ gian diệt bạo” nhưng cũng có những kẻ “đầu trộm đuôi cướp”
trong bối cảnh Miền Tây Hoang dã
(the Wild Wild West) tại Hoa Kỳ thời lập quốc. Bên cạnh các cowboys còn có sự hiện diện của sheriff với ngôi sao trên ngực, họ
là những cảnh sát do dân trong thị trấn bầu lên để thực thi luật
pháp.
Phim cao bồi đầu tiên tại Mỹ thuộc loại phim câm
(silent film) mang tên The Great Train
Robbery được sản xuất vào năm 1903. Những phim cao bồi nổi tiếng
thời Sài Gòn xưa phải kể đến Gunfight
at the O.K. Corral (năm 1957 với các tài tử Burt Lancaster, Kirk
Douglas), Rio Bravo (1959 với John
Wayne, Dean Martin, Ricky Nelson), The
Misfits (1961 với Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery Clift), The Good, the Bad and the Ugly (1966
với Clint Eastwood, Lee Van Cleef), Little
Big Man (1970 với Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…
Cao bồi đeo ngôi sao Sheriff
(ảnh chụp năm 1971 tại Alamo Village, San Antonio, Texas )
Từ ngữ cao bồi
sau khi du nhập vào miền Nam lại có những biến thể về ý nghĩa.
Người lái xe cao bồi được hiểu
là lái ẩu, ăn mặc cao bồi là
diện những bộ quần áo lố lăng, khó coi…
Tôi còn nhớ, ngày xưa thường hát Học sinh hành khúc của Lê Thương (nghe bản nhạc này tại http://www.youtube.com/watch?v=f2oYKkPgnFs&feature=related) với những lời ca tụng một thế hệ học sinh của tương lai đất nước:
“Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học
sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao…”
Thế nhưng, bài hát này đã được ai đó, chắc là mấy
cậu học trò “rắn mắt”, cải biên thành:
“Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô
Học
sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô…”
Chả là học sinh chỉ có đồng phục quần xanh-áo
trắng nên anh nào mặc áo ca rô thì bị “chụp mũ” là học sinh cao bồi. Còn cái vụ hủ
tiếu mà ăn tới “hai, ba tô” thì phải “xét lại”, có thể vì “bí vận”
nên câu trước “áo sơ mi ca rô” câu sau có vần “hủ tiếu ăn hai ba tô” chứ
học sinh làm gì có tiền mà ăn nhiều đến thế.
Tiện đây cũng xin nhắc lại chuyện phim ảnh của Sài
Gòn xưa. Để diễn tả một một sự kiện có tính cách kinh dị, người ta
còn dùng từ ngữ “hít-cốc”, xuất xứ từ cái tên của đạo diễn Alfred
Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh dị” của nền điện ảnh Hoa Kỳ với
khoảng 50 bộ phim kéo dài suốt 6 thập kỷ.
Người Sài Gòn đã có dịp xem rất nhiều phim hít-cốc “toát mồ hôi lạnh” như
The Man Who Knew Too Much (1956, với
James Stewart và Doris Day – trong phin này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be – Que Sera, Sera
và đoạt giải Oscar âm nhạc hay nhất); Vertigo
(1958, với James Stewart, Kim Novak); Psycho
(1960, với Anthony Perkins, Janet Leigh); The
Birds (1963, với Tippi Hedren, Rod Taylor)… (Xem thêm bài viết về Điện ảnh Sài Gòn tại http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/10).
Một trong những tác
động xấu của người Mỹ đến miền Nam trong cuộc chiến vừa qua là
hiện tượng xì-nách ba (snack bar)
mọc lên như nấm sau cơn mưa tại Sài Gòn. Khác hẳn với snack bar nguyên thủy ở Hoa Kỳ,
thường được hiểu là nơi bán các loại thức ăn nhẹ (snack) như hot dogs,
hamburgers, french fries, potato chips, corn chips… còn kèm theo đồ uống.
Sang đến Việt Nam, xì-nách
ba trở thành nơi lui tới của những người lính Mỹ xa nhà để uống
rượu giải sầu và được phục vụ bởi các cô gái bản xứ. Họ thường
là gái quê, ít học và có chút nhan sắc, ăn mặc “thời thượng” với
chiếc mini jupe ngắn cũn cỡn.
Gái xì-nách ba, hay còn gọi là gái bán ba, thường chỉ ngồi uống
nước ngọt hay nước trà với khách nên lính Mỹ gọi đó là Saigon Tea có giá từ 1 đến 2 đô la
một ly. Các cô làm ở xì-nách ba
không hẳn là gái điếm vì không phải cô nào cũng “đi khách”.
Cũng từ các cô gái
bán ba phát sinh ra loại tiếng Anh “giả cầy” kiểu “broken English”.
Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyện giữa các cô “đấu hót” với
lính Mỹ “Hello GI, you buy me Saigon
tea” (Chào anh lính, anh mua cho em ly Sài Gòn ti nhé) hay còn rùng
rợn với câu “No star where”, một
cụm từ trấn an mà các cô dịch thẳng từ tiếng Việt: Không sao đâu!
Lính Mỹ còn đưa vào Việt Nam một số thuật ngữ được
dùng từ hồi chiến tranh Triều Tiên. Để gọi người đàn bà lớn tuổi họ
dùng mama-san, đàn ông thì gọi
là papa-san còn con nít là baby-san. Cũng vì thế, trong câu
chuyện ở snack bar người ta
thường bắt gặp những từ này khi các cô gái bán ba muốn nói về gia
đình mình. Mama-san còn được
dùng để chỉ người điều hành snack
bar, tương tự như tài-pán,
người phụ trách điều động gái nhảy tại các dancing thời Pháp thuộc.
Kinh doanh xì-nách
ba là một nghề hái ra tiền tại Sài Gòn bên cạnh những dịch vụ
như tắm hơi (steam bath), mát-xa (massage) nhưng cũng chính
các nghề này đã khiến cuộc sống trong xã hội mất đi sự lành mạnh,
đưa đẩy một số phụ nữ vào con đường tội lỗi. Tuy nhiên, người ta
cũng hiểu đó là những hệ quả không thể nào tránh khỏi của một đất
nước trong tình trạng chiến tranh.
Sài Gòn và những quán bar, nhà hàng, khách sạn
Xã hội miền Nam bên cạnh nghề thu hút một số người
làm việc tại các quán ba còn có một giai cấp cao hơn, họ làm việc
cho các hãng thầu tư nhân của Mỹ như hãng RMK được thành lập từ đầu
thập niên 60 với các công trình xây dựng xa lộ Biên Hòa, Quốc lộ 4
tại Phụng Hiệp… hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ như
USAID.
Nói chung, họ là những người đi làm sở Mỹ với mức lương cao nhưng phải đạt một trình
độ tiếng Anh khả dĩ trong công việc hàng ngày. Những người có trình
độ cao hơn thì làm thông dịch viên, ngay như Trường Sinh ngữ Quân đội
cũng có những khóa đào tạo thông dịch viên đồng hóa với cấp bậc
trung sỹ để về phục vụ tại các tiểu khu có cố vấn Mỹ.
Năm 2011, tại Little Saigon, đã có một buổi họp mặt
“Cựu nhân viên sở Mỹ” nhân dịp Giáng sinh. Gần 400 cựu nhân viên đã
đến dự cuộc hội ngộ này, đa số là những người đã từng làm việc tại
Tòa đại sứ, Tổng lãnh sự Mỹ, các cơ quan chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID,
USIS cùng những nhân viên hãng thầu RMK của tư nhân.
Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 là thời kỳ
Sài Gòn chịu ảnh hưởng từ của phong trào hippy (hippie) của Mỹ.
Người ta thấy xuất hiện những từ ngữ có liên quan đến hippy như hoa hippy, hippy bụi đời, hippy choai
choai, hippy yaourt… Những kiểu
thời trang hippy cũng xuất hiện: váy ngắn (mini jupe, miniskirt), quần ống loe (quần chân voi), áo dài hippy thì ngắn cũn cỡn mặc
chung với quần ống loe còn con trai thì tóc dài đến độ nhìn từ xa
không thể nào phân biệt được giới tính…
Văn hóa hippy bao gồm từ phong cách ăn mặc “bụi” đến
những tư tưởng phóng khoáng, chống lại những quy ước cứng nhắc của xã hội.
Có thể nói, phong trào hippy là biến tấu của chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) theo kiểu “yêu cuồng, sống
vội” với Jean Paul Sarte, Françoise Sagan từ văn hóa Pháp.
Cuối thập niên 60s, phong trào phản đối chiến tranh
Việt Nam đã nở rộ tại Mỹ với khẩu hiệu “Make love not war". Biểu tượng của phong trào hippy là hoa không lá (còn gọi là hoa hippy), đó là hình tượng của Power Flower (sức mạnh của hoa) được
bắt đầu từ năm 1965 tại khu Berkerly, California. Người ta còn nhớ mãi
hình ảnh một cô gái hippy đã gắn hoa trên họng súng của một quân nhân
thi hành nhiệm vụ giữ trật tự trong một cuộc biểu tình phản chiến (3).
“Power Flower” – Hoa Hippy
Ở Sài Gòn, các người đẹp gắn hoa hippy lên tóc, cài
lên tai, dán lên mắt kính để làm duyên. Người ta còn vẽ hoa lên xe hơi,
lên xe Honda, thậm chí đôi lúc còn thấy hoa hippy xuất hiện trên cyclo,
xe ba gác, xe bò. Cô em gái tôi có một chiếc áo khi ủi đồ bị than
rớt cháy thủng một lỗ, thế là cô gắn luôn một cái hoa hippy, trước
là để “ngụy trang” sau là chạy theo… thời trang! Có thể nói Sài Gòn
khi đó giống như Trăm hoa đua nở,
nhại tên một chiến dịch thanh trừng chính trị ở miền Bắc.
Tôi còn nhớ, Trường Sinh ngữ Quân đội vào cuối thập
niên 60 có một Chuẩn úy mới từ Thủ Đức về. Anh Thịnh là một chuẩn
úy trẻ, có học vị cao nhưng lại rất lè phè trong lối sống. Hằng
ngày anh đến trường bằng chiếc xe hơi bỏ mui (decapotable) được trang trí
bằng những bông hoa hippy. Thế là anh chuẩn úy trẻ có tên “Thịnh
Hippy” kể từ đó.
Bức hình này gợi nhớ “Thịnh Hippy” ở trường SNQĐ
Có thể nói, phong trào hippy cũng lan rộng đến người
lính qua chuyện về “Thịnh Hippy” nhưng nói chung, những người lính
trận mỗi khi có dịp đi phép về thành phố chắc chắn không thể chấp
nhận lối sống hippy của các
thanh niên, thiếu nữ tại chốn phồn hoa đô hội.
Những người hằng ngày phải đương đầu với súng đạn
làm sao có thể “thông cảm” với những người hằng đêm đi “bum” tại các
phòng trà, dancing. Một đằng thì phải hy sinh tính mạng để “tham
chiến” còn một đằng thì lại ăn chơi để “phản chiến”. Đó là một
trong những “mâu thuẫn” trong chiến tranh Việt Nam. Phải chăng đó cũng
là một trong những lý do khiến miền Nam sụp đổ?
***
Chú thích:
(1) Henri Oger (1885-1936?) tên đầy đủ là Henri-Joseph Oger
là một người Pháp tình nguyện sang Bắc Kỳ đi lính và được biết đến qua bộ sưu
tập tranh mộc bản vẽ các sinh hoạt thường nhật của người Việt vào đầu thế kỷ
20. Trong khoảng 20 tháng làm việc tại Hà Nội (1907-1909), ông là người đã cùng
các họa sĩ, thợ khắc mộc bản, thợ in và các nhà Nho cố vấn (tất cả trên ba mươi
người) hoàn thành tác phẩm Technique du
peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam), một công trình nghiên cứu về
văn minh vật chất của vùng Hà Nội vào đầu thế kỷ 20.
Ở nước ngoài, một ít bản hiện lưu giữ dưới dạng vi phim tại
các ĐH như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illiois Carbondale, California
Berkeley, Cornell. Tại Pháp, lưu ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học - Paris
IV Sorbonne. Tại Nhật, lưu ở ĐH Keio, Minato-Ku. Riêng ở Việt Nam là nơi ấn
hành hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một bản (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư
viện quốc gia Hà Nội, và một bản khác (tương đối tốt) lưu giữ tại Thư viện
dưới thời Việt Nam Cộng hòa.
(2) Trên thực tế, tháng 9/1950 Tổng thống Mỹ Harry Truman
đã cử một Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group -
MAAG) đến Việt Nam để trợ giúp quân viễn chinh Pháp trong cuộc chiến tranh Đông
Dương chống lại những người Việt Minh. Phái bộ này không thực hiện nhiệm vụ như
những quân nhân chiến đấu mà chỉ giám sát việc sử dụng các trang thiết bị quân
sự viện trợ của Mỹ trị giá 10 triệu đô la.
Sau Hiệp định Geneve 1954, quân Pháp rút khỏi Việt Nam .
Để giúp những người Việt chống Cộng, chính phủ Mỹ đã quyết định viện trợ quân
sự của Mỹ sẽ chuyển trực tiếp cho chính phủ Ngô Đình Diệm, khi đó số cố vấn
tại MAAG đã tăng lên đến 740 người. Viện trợ quân sự của Mỹ tăng nhanh chóng từ 50 triệu đô la
(1959) lên đến 144 triệu đô la (1961).
Bộ chỉ huy Viện trợ
Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US
Military Assistance Command, Vietnam), viết tắt là MACV, được thành lập vào
tháng 2/1962, về danh nghĩa là cơ quan chỉ huy quân sự toàn bộ các lực lượng
quân sự Mỹ tại Việt Nam, nhưng trên thực tế, có quyền hạn chỉ huy về mặt quân
sự của toàn bộ các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng
minh tại Nam Việt Nam.
Văn phòng Tùy viên
Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, tên chính thức là Defense Attaché Office (DAO) được Hội đồng Tham mưu trưởng Liên
quân Hoa Kỳ được thành lập tháng 1/1973. Đây là một cơ quan thống nhất phụ
trách các tuỳ viên quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam ,
đồng thời quản lý việc hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam sau khi ngừng bắn.
(3) Có thể nói, tại Việt Nam, hippy chỉ là một phong
trào có tính cách thời trang trong khi tại Mỹ hippy là cả một chiến
dịch phản chiến qua đủ mọi hình thức: ca nhạc, tư tưởng, lối sống…
Phong trào Hippy bắt đầu từ năm 1967 với một đại hội nhạc trẻ Summer of Love được tổ chức trong 3
ngày (16, 17 và 18/6/1967) tại Monterey, phía bắc tiểu bang California, cách
San Francisco không xa.
If
you're going to San Francisco ,
be
sure to wear some flowers in your hair...
If
you're going to San Francisco ,
you're
gonna meet some gentle people there
Thành phố San Francisco được xem là cái nôi của Hippy sau
đó lan rộng đến các thành phố New York, Los Angeles, Philadelphia, Seattle,
Portland, Washington, D.C., Chicago, Miami, Montreal, Toronto, Vancouver, và
qua tận Châu Âu.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
***
15 Comments on Multiply
nam64 wrote on Mar
28, edited on Mar 29
Ròm gom 3 Entry lại thành một bài và làm ra một cái file PDF
.
Attachment: Ngôn
ngữ Sài Gòn xưa Những chữ vay mượn.pdf
nguyenngocchinh
wrote on Mar 28
Đã xem file PDF tổng hợp cả 3 bài nhưng bài cuối
cùng hình như bị trục trặc, phần text không được liền lạc, trơn tru.
Cám ơn Nam Ròm rất nhiều.
nam64 wrote on Mar
28
nguyenngocchinh
said “Đã xem file PDF tổng hợp cả
3 bài nhưng bài cuối cùng hình như bị trục trặc, phần text không được
liền lạc, trơn tru. Cám ơn Nam
Ròm rất nhiều.”
Để em xem lại, nếu có gì em làm lại mới sau. Khuya rồi mắt
mũi lờ mờ, làm xong mà hổng có kiểm kỹ lại hehehe
nam64 wrote on Mar
28
Ah em thấy rồi, sau khi gom lại bài dài quá, Word chưa load
xuông đầy đủ và dàn cho ổn định mà em lại save trước khi nó xong thành ra như
vậy. Ngày mai tỉnh táo em làm lại.
nguoigiaonline
wrote on Mar 28
Đúng như Ròm nói đó, sửa cho anh em nhờ héng (chỉ phần 3
lỗi). Rất trân trọng những cố gắng của anh Chính cũng như Ròm về tư liệu này.
nam64 wrote on Mar
29
nguoigiaonline
said “Đúng như Ròm nói đó, sửa cho
anh em nhờ héng (chỉ phần 3 lỗi). Rất trân trọng những cố gắng của anh Chính
cũng như Ròm về tư liệu này.”
Hí hí được rồi đó hehe
Tìm lỗi tại sao nó hổng được te tua luôn, nhưng cuối cùng cũng sửa lỗii và làm lại được hihi. Lò mò lò mò cũng ra cái chỗ chỉnh để save ra pdf file hehehehe. Cái thằng Word 2007 của Ròm nó khác với thằng Word XP mà hồi trước Ròm quen chổ chỉnh, phải lò mò tìm lại chổ chỉnh từng phần mới ra được những nơi mình cần chỉnh.
Bên Ròm thấy thì được rồi đó, nhưng bên anh xem như thế nào thì Ròm không biết ....có gì không ổn la lên cho Ròm biết với nha, cám ơn anh.
Tìm lỗi tại sao nó hổng được te tua luôn, nhưng cuối cùng cũng sửa lỗii và làm lại được hihi. Lò mò lò mò cũng ra cái chỗ chỉnh để save ra pdf file hehehehe. Cái thằng Word 2007 của Ròm nó khác với thằng Word XP mà hồi trước Ròm quen chổ chỉnh, phải lò mò tìm lại chổ chỉnh từng phần mới ra được những nơi mình cần chỉnh.
Bên Ròm thấy thì được rồi đó, nhưng bên anh xem như thế nào thì Ròm không biết ....có gì không ổn la lên cho Ròm biết với nha, cám ơn anh.
casmof wrote on Mar
28, edited on Mar 28
Nhật Bản, Đại Hàn là 2 quốc gia có nền khoa học kỹ thuật và
văn hoá tiến bộ hơn đất nước VN hiện nay gấp nhiều lần. Vậy mà chữ nghĩa của 2
quốc gia văn minh hạng nhứt trong nhóm các quốc gia văn minh Châu Á nầy lại có
đến gần 60% chữ vay mượn từ tiếng Trung Quốc, nhưng họ vẫn tự hào dân tộc, họ
có bản sắc riêng không phải Tàu cũng chẳng phải Tây. Quan trọng hơn hết có lẽ
là từ cái đầu của các nhà nghiên cứu văn hoá nghĩ gì và lương tri, kiến thức, trình
độ hiểu biết sự thành hình văn hoá thế giới của loại trí thức nầy đến đâu.
nam64 wrote on Mar
29, edited on Mar 29
Anh Chính ơi, Ròm làm lại pdf xong rồi đó, anh kiểm lại giùm
Ròm nhe, cám ơn anh.
nguyenngocchinh
wrote on Mar 29
nam64 said “Anh Chính ơi , Ròm làm lại pdf
xong rồi đó ,anh kiểm lại giùm Ròm nhe, cám ơn anh.”
Đã kiểm lại file pdf, lần này thì hoàn hảo rồi.
Một lần nữa, Cám ơn Ròm nhé.
thahuong82
wrote on Mar 29
Nói đến hoa hippy tôi chợt nhớ Tiểu Đoàn 231/PB chơi hoa
Hippy ở đầu xe jeep (dưới tấm kiếng) để phân biệt các Pháo đội. PĐ chỉ huy hoa
hippy màu vàng các PĐ A-B-C Xanh, trắng, đỏ… ông thiếu tá tiểu đòan trưởng rất
chịu chơi!
thahuong82
wrote on Mar 30
Anh Ròm hay anh Chính chỉ dùm: Tôi rinh một tấm hình từ
internet về dán (past) trong một bài viết của mình, tại sao lúc gởi đi có người
thấy hình, có người không thấy hình?
nam64 wrote on Mar
30
thahuong82 said
“Anh Ròm hay anh Chính chỉ dùm:
Tôi rinh một tấm hình từ internet về dán (paste) trong một bài viết của mình, tại
sao lúc gởi đi có người thấy hình, có người không thấy hình?”
Click chuột phải vào hình chọn "copy hình" rồi
qua bên compose blog entry nơi đang viết bài, cũng click chuột phải vào nơi nào
mình muốn chọn phần "dán vào = paste", chỉ đơn giản vậy thôi.
Hình có người thấy người không, đó là do nguồn (link) hình, người xem có thể vào cái link đó được hay không? Nhiều trang mạng bên ngoài bị chặn, dân trong nước không vào được ===> gặp trường hợp này mình có thể đem hình về PC và đưa lên lại trên Multiply cho bà con xem.
Xem Entry này của Ròm nè :
Post hình từ PC lên Mult http://nam64.multiply.com/journal/item/3120/3120
Hình có người thấy người không, đó là do nguồn (link) hình, người xem có thể vào cái link đó được hay không? Nhiều trang mạng bên ngoài bị chặn, dân trong nước không vào được ===> gặp trường hợp này mình có thể đem hình về PC và đưa lên lại trên Multiply cho bà con xem.
Xem Entry này của Ròm nè :
Post hình từ PC lên Mult http://nam64.multiply.com/journal/item/3120/3120
thahuong82
wrote on Mar 30
Hình sở hữu thì OK chỉ hình chôm chỉa mới biến mất thôi. Cám
ơn bạn
vietnamhoc
wrote on Jul 10
Xin phép tác giả cho chép loạt bài này về blog tìm hiểu từ
nguyên (tunguyenhoc.blogspot.com). Xin cảm ơn rất nhiều. Minh.
nguyenngocchinh
wrote on Jul 11
vietnamhoc said
“Xin phép tác giả cho chép loạt
bài này về blog tìm hiểu từ nguyên (tunguyenhoc.blogspot.com). Xin cảm ơn rất
nhiều. Minh”
Tôi đã vào trang "Từ Nguyên Học"
(tunguyenhoc.blogspot.com) của anh. Trang web có rất nhiều bài viết công
phu về ngôn ngữ. Tiện đây cũng xin giới thiệu với các bạn đọc gần
xa.
Tôi không hiểu tác gỉả thong thái tới đâu, nhưng khi tự gọi ndân tộc Việt Nam là An Nam thì bài viết trên đây hoàn toàn vô ghía trị vì:
Trả lờiXóaChúng ta gọi ba tàu là có y miệt thị bọn tư xưng là Trung Hoa, nhưng tự người Trung quốc không bao giờ tự gọi là ba tàu.
Tàu gọi chúng ta là An Nam từ chứ Ố Nàm mà ra, tức là đồ dơ dáy... Tác giả này lại cứ nhắc đi nhắc lại, 'Người An Nam ta...tỉnh queo.
Mình thì ko rõ cái này lắm, nhưng An Nam dù gì cũng là tên của mình mà
Trả lờiXóatags: Cách học từ vựng hiệu quả
Tôi mới biết đến trang nhà này. Xin phép anh Chính cho tôi đem về trang blog của tôi ở: https://nuocnha.blogspot.com/
Trả lờiXóa