Sang đến thời kỳ “một
trăm năm đô hộ giặc Tây” (Trịnh Công Sơn, Gia tài của Mẹ), Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng
đã trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng vì thế, tiếng Pháp đã có
ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của người Việt.
Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và
trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm
nhập đời sống thường ngày của người dân.
Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây
phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục
đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt
ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những
thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.
Linh mục Alexandre de Rhodes
Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay
một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho
giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định
Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng
định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của
nước Việt Nam sau này.
Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp
đến một cách rất tự nhiên. Người
ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê”
để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze
Juliet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm
thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của mình vốn chỉ đếm được trên
đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ,
lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một
chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông (monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).
Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân
xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa (tôi, tao – moi), en hay ẻn (cô ấy, chị
ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy,
hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông,
ngài – monsieur)... Học trò
trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời
thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một
câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua
moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở
đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp).
Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa
đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray (rail) từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km.
Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một
năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau
đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam,
dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường
ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng 1.240km đường ray nhưng vì chiến cuộc nên
chỉ được sử dụng khoảng 60%.
Nhà ga cũng có
xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho
tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng
hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ
bẻ ghi (aiguiller) tức là điều khiển ghi
(aiguille) cho xe lửa chuyển sang
đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi
còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không
thích sang một đề tài khác.
Xe lửa ngày xưa
Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu
ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”.
Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp
được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền
tại miền Nam .
Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su (giờ giấc co dãn, không
đúng giờ), kẹo cao su (chewing-gum), bao cao su (còn gọi là “áo mưa” dùng để tránh thai hoặc
tránh các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục)…
Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong
ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông
cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất
xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon.
Ở miền Bắc, xà bông được cải
biên thành xà phòng, là chất dùng
để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo.
Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng
dầu dừa làm nguyên liệu chính.
Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp
trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả
cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào
nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy
(thực đơn – menu) trong đó có
những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên
thủy tiếng Anh – beefsteak), những
thức uống như bia (rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon), rượu vang (rượu nho – vin)…
Về thịt thì có xúc-xích
(saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê
(thịt thăn, thịt lườn – filet). Các
món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry)… Khi ăn
xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire).
Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa
cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.
Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì
theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh
tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì
nhỏ, dài – baguette), bánh pa-tê-sô
(một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là
bánh sừng bò – croissant).
Bánh “pathé chaud”
Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo
nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la
(trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết
(trứng tráng – omelette) hoặc
trứng la-cóc (trứng chụng nước
sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).
Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới
đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài
Gòn nhiều người đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình”: “cái nồi ngồi trên cái cốc”.
Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất
nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy
măng-sét (manchette). Khi đi
tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo
vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt
(cravate) trên cổ áo sơ
mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên
trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.
Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng
Pháp. Phụ nữ trên thì mang xú-chiêng
(nịt ngực – soutien-gorge) dưới
thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp
là short được mượn từ tiếng Anh shorts).
Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu – laine).
Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).
Mũ phớt
Đi lính cho Tây thì được phát đôi giày săng-đá (giày của lính – soldat). Loại lính nhảy dù, biệt
kích (ngày nay là đặc công) gọi là còm-măng-đô
(commando). Một đoàn xe quân sự
có hộ tống được gọi là công-voa
(convoi, trông cứ như con voi trong
tiếng Việt!). Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối
vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi
đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu
thông.
Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui), sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày
nay gọi là hải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan còn
có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp
thuộc.
Nông phẩm thì có đậu cô-ve
(còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou),
súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade), cải xoong (còn gọi là xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…
Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano
(dương cầm), violon (vĩ cầm), kèn
harmonica (khẩu cầm)... Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc – orchestre)
chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhẩy – cavalière).
Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve
với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa
nguyên thủy của nó.
Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của
sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre),
pho-mát (fromage), kem (crème)... Nổi tiếng ở Sài Gòn có
hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ (Longevity) và Con Chim (Nestlé) như đã nói ở phần trên.
Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông
già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên
hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ (longévité)
của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì
làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim (gồm chim
mẹ và 2 chim con) nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho
tiện.
Logo của Nestlé
Cũng vì thế mới có nhiều câu chuyện khôi hài về
sữa Con Chim. Chú Ba Tàu, chủ tiệm “chạp phô”, giải thích vì sao sữa
Con Chim lại bán với giá mắc hơn những sữa khác: “Sữa con bò vì có nhiều vú nên rẻ, sữa mẹ chỉ có 2 vú nên
đắt nhưng Con Chim nhỏ chút xíu, vắt được 1 lon sữa là quý lắm thì
phải mắc tiền nhất chớ!”.
Các ông lại giải thích một cách hóm hỉnh khi các bà
thắc mắc Con Chim làm gì có
sữa: “Tại mấy bà không để ý đấy
thôi, con chim khi hứng chí cũng tiết ra một thứ sữa màu trắng đục,
đó không phải là sữa thì là gì?”.
Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác
như Núi Trắng (Lait Mont-Blanc) và
sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những
gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út: vừa bùi, vừa
béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng.
Sữa bột Guigoz
được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong
lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột,
các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được
“tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt…
Lon Guigoz
Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công
dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất
ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh
tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu
để phòng khi cần đến.
Lon Guigoz thường
được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”.
Học tập càng lâu lon gô càng tỏ
ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy
dùng gô làm ly đựng nước súc
miệng, nhưng gô còn tỏ ra đặc
biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc
măng (lấy ở trên rừng), luộc rau, luộc khoai mỳ (“chôm chỉa” khi đi
“tăng gia sản xuất”)… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp
núc.
Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại
Trảng Lớn (Tây Ninh) nên có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly.
Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò
“dã chiến” và lon gô để vào
trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng
centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được
vào trại “thăm nuôi”.
Sau 30/4/75 lon gô
trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho
bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh
không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975. Tình cờ tôi bắt gặp
trang web (http://www.teslogos.com/ancienne_boite_de_lait_guigoz_collector_collection.html)
của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá
lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không,
không có sữa!
Sữa bột Guigoz
Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa
thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven
(manivelle) đặt ở đầu xe, sau này
tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ
(khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer),
xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người
lái xe - chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí
thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé),
mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis),
công-tơ (thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…
Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý
thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp.
Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan
(bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).
Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có
dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau,
chỉ quay tự do được theo một chiều – roue
libre), rồi phanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh
sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue)
và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích
– garde-chaine).
Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe
xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ
phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm). Tôi còn nhớ khi tháo
tung một cái dynamo cũ thấy có
một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện.
Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất
dễ bị phú-lít thổi phạt nên
nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa
có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling … Đó là những
chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và
một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của
người Sài Gòn xưa.
Xe đạp Mercier ngày xưa
có gắn ống bơm, dynamo và cả lon Guigoz
(Còn tiếp)
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
***
14 Comments on Multiply
cobasg wrote on Mar
23
Hay quá! vậy là Xà Bông Cô Ba phải gọi là Savon Coba
phantran53
wrote on Mar 23
Nhớ quá chừng... hiiiiiiiiiii cảm ơn tác giả rất nhiều! Chúc
hai ngày cuối tuần thật vui vẻ thoãi mái nghne. Thân mến.
chackadao wrote
on Mar 23
ngon ngu vay muon khong co gi la xau. VNam la thuoc dia, mot
dan toc bi tri, khong phai la cai noi van van hoa thi ngon ngu vay muon la
chuyen binh thuong.
nam64 wrote on Mar
24, edited on Mar 24
chackadao said “ngon ngu vay muon thi co gi la
xau. VNam la thuoc dia, mot dan toc bi tri, khong phai la cai noi van van hoa
thi ngon ngu vay muon la chuyen binh thuong”
Tại sao mày cứ ngậm phân đi phun tùm lum nhà người ta quài
vậy, sao mày không về cái xứ tàu (?) của mày mà mày phun vào tổ tiên của mày.
nam64 wrote on Mar
24
Xin lổi anh... Ròm bực cái thằng chắccàchótàu này quá. Đã tự
nhủ, hổng thèm để ý tới phân từ trong mõm của nó phun ra, nhưng đọc Entry của
anh mà lại thấy còm của nó làm bực mình, phải dòm coi nó viết gì.
nam64 wrote on Mar
24
Em đã đem link 4 Entry từ nhà anh về bên em rồi. Khi rảnh em
sẽ gom lại tất cả và làm ra một cái file PDF.
thahuong82
wrote on Mar 24
Sưu tầm anh Chính viết rất dí dỏm và chỉ những người có tuổi
mới cảm nhận được những danh từ đã Việt Nam hoá xuất xứ từ đâu, tôi nghĩ mình
cũng chẳng vay mượn ai vì vay mượn là phải có hòan trả, cứ cho là thấy hay, thấy
tiện là xaì thành tiếng mình, như tiếng Anh &Mỹ chỉ xài 2 chữ OK là diễn tả
được hết ý ngày nay có thể nói nước nào cũng dùng chữ OK để diễn tả sự: đồng ý,
nhất trí, chấp thuận, hoàn tất......
nam64 wrote on Mar
26
Ròm đã gom 2 Entry vào một
Attachment: Ngôn
ngữ Sài Gòn xưa Những chữ vay mượn.pdf
nguyenngocchinh
wrote on Mar 26
Thanks Nam Ròm. "Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ
vay mượn" còn 1 entry nữa về tiếng Mỹ, sẽ post vào tuần tới.
nam64 wrote on Mar
27
nguyenngocchinh
said “Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những
chữ vay mượn" còn 1 entry nữa về tiếng Mỹ, sẽ post vào tuần
tới.”
Chờ anh cho ra lò, em sẽ đem về làm tiếp ra pdf.file há
hehehehe.
Làm pdf cũng đơn giản và lẹ thôi anh ơi. Cách em làm rất là đơn giản không màu mè cho nhanh. Nếu siêng mà màu mè thêm hình ảnh xưa vào chi tiết của bài viết, em nghĩ chắc sống động và hay lắm. Vì cần thời gian, hứng và siêng thì làm pdf file màu mè mới đã hehehehehe
Làm pdf cũng đơn giản và lẹ thôi anh ơi. Cách em làm rất là đơn giản không màu mè cho nhanh. Nếu siêng mà màu mè thêm hình ảnh xưa vào chi tiết của bài viết, em nghĩ chắc sống động và hay lắm. Vì cần thời gian, hứng và siêng thì làm pdf file màu mè mới đã hehehehehe
thahuong82
wrote on Mar 26
Hoan Hô Nam Ròm một phát, như thế tiện lợi cất giử, buồn
buồn gải h..... đem ra đọc.
nam64 wrote on Mar
27
thahuong82 said
“buồn buồn gải h.....đem ra đọc”
Hahaha
thahuong82
wrote on Mar 27
Nhìn chiếc xe đạp "đuyara"... thuở đó thèm chảy
nước dải, mơ ưóc vượt quá tầm tay đối với những em học trò nghèo!
Cám ơn Anh!
Trả lờiXóa