Thay đổi sâu rộng nhất là cả một hệ thống chính
trị tại miền Nam
cho nên những từ ngữ có liên quan đến ý thức hệ cũ dần dần đã đi
vào quá khứ. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Bài viết này
có mục đích ghi lại những từ ngữ đã một thời phổ biến trong xã
hội miền Nam để những thế hệ kế tiếp có thể hiểu được những gì
cha ông đã thường nói trong cuộc sống hàng ngày.
Chiêu hồi là một
trong những từ ngữ của Sài Gòn xưa và sẽ dần dần đi vào quên lãng.
Đây là một chương trình do chính phủ Việt Nam Cộng hòa đề ra để khuyến khích
các thành phần vũ trang của Mặt trận Giải phóng miền Nam và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa buông súng quay về với phe chính phủ. Vận động tuyên truyền
được thực hiện dưới nhiều hình thức: truyền đơn thả từ máy bay hoặc qua
những chương trình phát thanh và đài phát thanh [1].
Giấy Thông Hành
Chính phủ VNCH cho in và phổ biến Giấy thông hành nhằm mục đích giúp các cán binh, du kích
trở về với quốc gia. Phần trên của Giấy
thông hành có cờ VNCH và cờ của các quốc gia tham chiến gồm Hoa
Kỳ, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Tân Tây Lan và Phi Luật Tân. Giấy thông hành được viết bằng 4
ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đại Hàn và tiếng Thái. Phần
dưới có nội dung như sau:
“MANG TẤM GIẤY THÔNG HÀNH nầy về cộng tác với Chánh
Phủ Quốc Gia các bạn sẽ được:
- Đón tiếp tử tế
- Bảo đảm an ninh
- Đãi ngộ tương xứng
(Ký tên)
Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Song song với việc phổ biến Giấy Thông Hành là các chương trình Phát thanh Chiêu hồi được mở đầu bằng bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác được dùng làm
nhạc hiệu (nghe Ngày Về qua giọng
ca của Anh Ngọc trên http://www.youtube.com/watch?v=rNKpu3IEW2c):
"Tung
cánh chim tìm về tổ ấm
nơi
sống bao ngày giờ đằm thắm
nhớ
phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến
tiếc bao ngày xanh…”
Điều khá lý thú là Hoàng Giác (sinh năm 1924) vốn
là nhạc sĩ theo kháng chiến chống Pháp và đã từng là đội viên tuyên
truyền trong chiến khu Việt Bắc. Năm 1947, Hoàng Giác viết Ngày về, theo ông, đó là ca khúc ưng ý
nhất. Năm 1948 Hoàng Giác “dinh tê” trở về Hà Nội, hoạt động nghệ thuật
như một nhạc sĩ và cũng là một ca sĩ được dân Hà Thành hâm mộ.
Cũng giống như một số nhạc sĩ cùng thời, Hoàng Giác sáng
tác không nhiều, chỉ khoảng 20 ca khúc, trong số đó có những bài hát nổi tiếng,
vượt thời gian như Mơ hoa, Ngày về, Hương lúa đồng quê. Ông hiện sống ở Hà Nội và có người con trai
là nhà thơ khá nổi tiếng Hoàng Nhuận Cầm.
Báo Công an Nhân dân
trong bài viết “Nhạc sĩ Hoàng Giác: Mãi
giấc mơ hoa” có đoạn đề cập đến bản nhạc Ngày về:
“Sau khi được một số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, rất ngẫu nhiên, giai điệu của "Ngày về" được chính phủ Việt Nam Cộng hòa chọn làm nhạc hiệu cho chương trình Chiêu hồi. Vì tình huống nhạy cảm này mà mãi đến sau 1975, bài "Ngày về" mới được hát trở lại ở ngoài Bắc với nhiều giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung, Ngọc Tân…”
“Sau khi được một số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, rất ngẫu nhiên, giai điệu của "Ngày về" được chính phủ Việt Nam Cộng hòa chọn làm nhạc hiệu cho chương trình Chiêu hồi. Vì tình huống nhạy cảm này mà mãi đến sau 1975, bài "Ngày về" mới được hát trở lại ở ngoài Bắc với nhiều giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung, Ngọc Tân…”
Nhạc sĩ Hoàng Giác
Những cán binh trở về với Chính phủ VNCH được gọi là người hồi chánh hay hồi chánh viên. Trong số những người hồi chánh có ca sĩ Bùi Thiện và Đoàn
Chính (con trai nhạc sĩ Đoàn Chuẩn), nhà văn Xuân Vũ (tác giả hồi ký Đường Đi Không Đến và Vượt
Trường Sơn, đã qua đời tại Texas năm 2002), Trung Tá Lê Xuân Chuyên (bị chính
quyền mới xử tử hình vào ngày 30/4/1975), Trung tá Tám Hà, Trung tá Phan Văn
Xưởng, Trung tá Huỳnh Cự…
Hồi chánh viên (từ trái qua phải): Trung Tá Phạm Viết Dũng,
Trung đoàn phó Phạm Văn Xướng, Trung Tá Tám Hà
Chiêu hồi, ngoài
ý nghĩa chính trị còn được dùng như động từ để chiêu dụ ai đó, chẳng hạn như trong câu: “Hắn đã ‘chiêu hồi’ được một tay chọc trời khuấy nước về làm
việc dưới trướng”.
Gần đây, trên http://nguoivietblog.com/hagiang/?p=497, tác giả Tam Thanh có một bài viết với tiêu đề “Chiêu hồi” ngôn ngữ, bàn về cách dùng khác nhau và ý nghĩa đúng-sai của những từ ngữ xuất xứ từ miền Nam và miền Bắc.
Gần đây, trên http://nguoivietblog.com/hagiang/?p=497, tác giả Tam Thanh có một bài viết với tiêu đề “Chiêu hồi” ngôn ngữ, bàn về cách dùng khác nhau và ý nghĩa đúng-sai của những từ ngữ xuất xứ từ miền Nam và miền Bắc.
Trần Trung Đạo trong bài “Mặc cảm chiêu hồi và khát vọng tự do” viết:
"Tôi có mặc cảm rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra Hà Nội là chấp nhận chế độ, là một hình thức chiêu hồi. Tôi ở lại Việt Nam thêm 6 năm nhưng nhất định không đi thăm miền Bắc, dù có nhiều cơ hội…" (http://www.trantrungdao.com/?p=262).
"Tôi có mặc cảm rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra Hà Nội là chấp nhận chế độ, là một hình thức chiêu hồi. Tôi ở lại Việt Nam thêm 6 năm nhưng nhất định không đi thăm miền Bắc, dù có nhiều cơ hội…" (http://www.trantrungdao.com/?p=262).
Thuật ngữ “chém vè”
cũng là một từ ngữ chính trị được sử dụng tại miền Nam . Chém vè, nguyên thủy có ý nghĩa ẩn mình dưới nước hoặc những nơi lùm bụi
rậm rạp gần bờ nước để trốn tránh. Theo một số người, “chém vè” xuất phát từ con ba ba (cua
đinh) với hai càng rất khỏe còn gọi là vè. Hễ nghe tiếng động, hai vè
của nó chém mạnh rồi chui vào bùn để trốn.
Đối với chính quyền VNCH, thuật ngữ “chém vè” chỉ tình trạng các cán
binh “giã từ vũ khí” để ra “hồi
chánh”. Xem ra, cũng chỉ một từ ngữ nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác
nhau tùy theo chính kiến. Đó cũng là điều dễ hiểu ở một đất nước
đang trong tình trạng chiến tranh về ý thức hệ.
Chuyện cười của Bác Ba Phi trong Rùa U Minh viết: “Hai bác
cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà
thì thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang muối. Nó bảo là hồi trưa
nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nghe nói mà tui tiếc
hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước [thiết vận
xa M113, chú thích của NNC], bỏ chạy
trốn. Thiệt tức!”. Chém vè ở
đây chỉ thuần túy là ẩn núp.
Theo hồi ký "Chém vè
giữa làng báo Sài Gòn" của nhà văn Nguyên Hùng [2], thuật ngữ “chém vè” trong bài viết này chỉ
việc những cán bộ Cộng sản, sau hiệp định Genève 1954, được đưa về Sài Gòn
để “trường kỳ mai phục”, “hoạt động trong lòng địch” hay còn gọi là “nằm vùng”.
“Nằm vùng” quả
là một từ vừa gợi hình lại gợi ý. Đối với chính quyền VNCH, nằm vùng là một từ có ý miệt
thị chỉ những người sinh sống tại miền Nam hoạt động bí mật cho
Cộng sản, tương tự như cụm từ người ta thường nói: “Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản”.
Mãi đến sau năm 1975, những nhân vật nằm
vùng mới dần dần lộ diện.
Theo cuốn Decent
Interval của Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của CIA, có đến hàng
chục ngàn cán bộ Cộng sản “nằm
vùng” tại miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Họ có thể là một
người lái taxi, đạp cyclo… hằng ngày vẫn theo đuổi công việc của mình
nhưng sau 30/4/1975 họ lại là những cán bộ trong Ủy ban Quân quản giữ nhiệm vụ điều hành một thành phố
Sài Gòn còn đang trong thời kỳ hỗn mang.
Ở một mức độ cao hơn, cán bộ “nằm vùng” nằm ngay trong guồng máy chính phủ Sài Gòn, nổi
bật nhất là nhân vật tình báo bí ẩn Phạm Ngọc Thảo [3]. Điều bất
ngờ là Thảo mang cấp bậc Đại tá của Quân lực VNCH tại miền Nam trong
khi chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn không biết ông còn là
Đại tá trong Quân đội Nhân dân ở miền Bắc.
Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu
năm 1961 Ngô Đình Nhu đã quyết định cử ông làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức
Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình
định. Từ khi Phạm Ngọc Thảo nhậm chức, tình hình an ninh tại vùng này
trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có
nhiều tố cáo nghi ngờ ông là “cán bộ cộng
sản nằm vùng”, ông thôi giữ chức Tỉnh trưởng và được cử sang Hoa Kỳ
học một khóa về chỉ huy và tham mưu.
Tháng 9/1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến (nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị, thực chất là cơ
quan mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đã kêu
gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an...
sẵn sàng tham gia. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1/11/1963,
Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng.
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật cho
phía bên kia chiến tuyến vì ngày càng nhiều nghi vấn ông là Việt Cộng mằm vùng. Phạm Ngọc
Thảo bị chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kết án tử hình và
treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được. Cuối cùng, Phạm Ngọc Thảo bị Cục
an ninh quân đội (Số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm) bắt giữ và bị thủ tiêu ngày
17/7/1965 khi mới 43 tuổi.
Những năm hoạt động “nằm
vùng” của Phạm Ngọc Thảo cho chính quyền miền Bắc được ngụy
trang rất kỹ và rất ít người ở miền Nam biết ông là một nhà tình báo.
Ngay cả sau 30/4/1975, nấm mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh vì ông hoạt
động “đơn tuyến”. Mãi sau này, một số đồng đội đã sưu tầm tài liệu
về ông và đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân... Năm 1987, nhà cầm quyền
truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ với
quân hàm đại tá và mộ của ông được đưa về nghĩa trang thành phố, trên đồi
Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức).
Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất
sắc nhất của Chính phủ miền Bắc (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ
và Lê Hữu Thúy). Đối với Chính phủ miền Nam, cả 4 người này đều là “Việt Cộng Nằm Vùng”, không hơn không
kém!
Tiểu thuyết Ván Bài
Lật Ngửa của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch Đằng) được mở
đầu bằng câu: "Tưởng nhớ anh Chín T. và
những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng". Nhân vật chính trong
truyện, Nguyễn Thành Luân, chính là hình ảnh của Phạm Ngọc Thảo, bí
danh Chín T. hay Chín Thảo.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo dưới sắc áo Quốc gia
Nhân vật “nằm vùng”
thứ hai là Phạm Xuân Ẩn [4] là một thiếu tướng tình báo của Hà Nội với biệt
danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Trong suốt thời gian chiến tranh, Phạm
Xuân Ẩn sống tại Sài Gòn dưới vỏ bọc “ký giả” làm việc tại Việt tấn xã, cộng tác với hãng
thông tấn Reuters và có nhiều bài viết trên tạp chí Time, New York Herald Tribune,
The Christian Science Monitor...
Theo một tài liệu được công bố, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về
Hà Nội 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông
tin thu lượm cùng phân tích và nhận định của Ẩn về VNCH và Hoa Kỳ. Là
người đã từng được đào tạo về ngành báo chí tại Mỹ, Phạm Xuân Ẩn
là nhân vật được chèo kéo bởi nhiều cơ quan tình báo miền Nam cũng như miền
Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, kể cả CIA.
Ngày Sài Gòn đổi chủ, vợ con Phạm Xuân Ẩn đã rời
Việt Nam theo chiến dịch di tản của người Mỹ và theo kế hoạch của miền
Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, theo
một số tài liệu, Phạm Xuân Ẩn đã đề nghị cấp trên cho ngưng công tác vì
lý do đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đã phải mất một
năm để quay lại Việt Nam
theo đường vòng: Paris - Moscow
- Hà Nội - Sài Gòn.
Như cái tên “định mệnh” mà ông mang, cuộc đời của
Phạm Xuân Ẩn lúc “ẩn”, lúc “hiện” và cũng có lúc “lên voi”, lúc “xuống chó”. Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối không cho phép
Phạm Xuân Ẩn đến Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở New York mà ông được mời với tư
cách khách mời đặc biệt. Trong những
năm cuối đời, có vẻ như Phạm Xuân Ẩn cảm thấy thất vọng với những gì ông
chứng kiến tại Việt Nam
sau cuộc chiến. Ông tiết lộ với Thomas A. Bass, tác giả cuốn The Spy Who Loved Us: "Dân chúng tại đây [tức Việt Nam] không được viết tự do. Đó là vì sao tôi
không viết hồi ký".
Năm 1978, Phạm Xuân Ẩn phải ra Hà Nội học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Sự kiện
này được xem như một hình thức “cải tạo” và ông giải thích vì lý do
đã “sống quá lâu trong lòng địch”. Có người cho rằng ông bị nghi kị và bị
quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc
biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử… “rất Mỹ”.
Ông đã từng giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Việt Nam
vào ngày 30/4/1975 (Bác sĩ Tuyến là “xếp” cũ của Phạm Xuân Ẩn năm
1959. Cơ quan mật vụ của BS Tuyến biệt phái ông sang làm việc tại Việt tấn xã, phụ trách bộ phận
các phóng viên ngoại quốc làm việc trong cơ quan này).
Phạm Xuân Ẩn và các con
Vũ Ngọc Nhạ [5], Thiếu tướng tình báo của Hà Nội
cũng là một trường hợp “nằm vùng”
ngay trong đầu não của nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa tại miền
Nam, kéo dài từ năm 1954 đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Miền Bắc ca tụng
ông là “điệp viên siêu hạng” với những “điệp vụ bất khả thi” trong “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”.
Với vỏ bọc của một “con chiên ngoan đạo” đã từng
sát cánh với Giám mục Lê Hữu Từ
và Linh mục Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ trở thành một
người tâm phúc, thường xuyên bàn bạc những vấn đề cơ mật với Tổng
thống Ngô Đình Diệm. Thời Đệ nhất Cộng hòa có “bốn con rồng”: Bạch Long (Ngô Đình Diệm), Hồng Long (Ngô Đình Thục), Thanh Long (Ngô Đình Nhu) và Hắc Long (Ngô Đình Cẩn). Cố vấn Ngô
Đình Nhu đã gọi Vũ Ngọc Nhạ là Hoàng
Long để trở thành con rồng thứ năm trong Ngũ Long của Đệ nhất
Cộng hòa.
Cuối năm 1965, do sự chạy đua quyền lực quyết liệt trong
nhóm các tướng trẻ, tướng Nguyễn Văn Thiệu đã sử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò
liên lạc viên với Công giáo, qua sự giới thiệu của Linh mục Hoàng Quỳnh, nhằm
tìm chỗ dựa chính trị. Là một điệp viên, Vũ Ngọc Nhạ đã khéo léo sử dụng vai
trò này để tạo dựng các mối quan hệ và gây ảnh hưởng đến giới chính trị cả
trong dân sự lẫn quân sự.
Một lần nữa, Vũ Ngọc Nhạ trở thành “Ông Cố Vấn” sau
khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống năm 1967. Đây cũng là thời điểm
mạng lưới tình báo A.22 (vốn là mật danh riêng của Nhạ) được hình thành
và phát triển. Thành công ngoạn
mục nhất của cụm tình báo A22 là thu hút được Huỳnh Văn Trọng, một phụ tá của Tổng
thống Thiệu.
Tháng 8/1968, tướng Thiệu đã cử Huỳnh Văn Trọng cầm đầu một phái đoàn
của Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá
nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ
Johnson đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Chính những thông tin này đã góp một
phần cho Hà Nội trước khi
ngồi vào bàn đàm phán tại Paris với Mỹ.
Vũ Ngọc Nhạ và “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”
Ở trường Sinh ngữ Quân đội, một đơn vị tương đối nhỏ
trong quân lực VNCH, cũng đã có vài trường hợp “nằm vùng”. Vì vấn đề tế nhị, tác giả xin chỉ viết tên tắt của những nhân vật này.
Nổi bật nhất có Đại úy TVQ và Thiếu úy NCD. Đại úy Q. là người từ đơn vị chuyển về trường SNQĐ khi nhu cầu huấn luyện Anh văn cho quân đội tăng cao do chương trình Việt Nam hóa chiến tranh nhằm đào tạo quân nhân các binh chủng Hải-Lục-Không quân VNCH đi học chuyên môn tại Hoa Kỳ để về nước đảm nhận công việc của quân đội Mỹ.
Nổi bật nhất có Đại úy TVQ và Thiếu úy NCD. Đại úy Q. là người từ đơn vị chuyển về trường SNQĐ khi nhu cầu huấn luyện Anh văn cho quân đội tăng cao do chương trình Việt Nam hóa chiến tranh nhằm đào tạo quân nhân các binh chủng Hải-Lục-Không quân VNCH đi học chuyên môn tại Hoa Kỳ để về nước đảm nhận công việc của quân đội Mỹ.
Sự gia tăng bất ngờ về số khóa sinh tại trường SNQĐ
khiến nhà trường phải tuyển thêm quân nhân có khả năng tiếng Anh từ
các đơn vị về để đào tạo thành giảng viên Anh ngữ. Đại úy Q. thuộc
thành phần bổ xung đó. Q. về trường khi đã đeo lon Đại úy từ một đơn
vị chiến tranh chính trị. Anh là một sĩ quan hiền lành, ít nói nhưng
sau ngày 30/4/75 bạn bè cũ mới “bật ngửa” khi biết anh thuộc hàng
ngũ… bên kia chiến tuyến.
Sau thời gian cải tạo tôi trở về Sài Gòn gặp lại Q.
khi đó là nhân viên hành chánh của trường Đại học Kinh tế. Tôi tiếp
xúc với anh một cách dè dặt trong một vài buổi họp mặt các anh em
giảng viên cũ. Sau đó Q. biến mất khỏi các cuộc gặp gỡ, có lẽ vì
không chịu nổi những xầm xì, bàn tán về vai trò “nằm vùng” của mình.
Trường hợp “nằm
vùng” thứ hai ở trường SNQĐ là Thiếu úy NCD, một người được
tuyển thẳng từ Thủ Đức về trường. Cũng như Đại úy Q., Thiếu úy D.
là người ít nói và hầu như rất ít giảng viên trong trường để ý đến
người thanh niên “trầm lặng” này. Sau này, có một số anh em giảng viên
nói chính Thiếu úy NCD đã “tiếp quản” trường SNQĐ những ngày đầu
tháng 5/75.
Hành tung của viên thiếu úy “nằm vùng” được sáng tỏ: người anh của NCD là một cán bộ
cao cấp. Được coi là một trí thức Marx-Lenin, Viện sĩ NCT (Sáu Quang),
anh ruột NCD, là nguyên Bí thư Thành Đoàn giai đoạn 1977 - 1981, Trưởng Ban
quản lý Khu Chế Xuất – Khu Công Nghiệp đầu tiên của thành phố, nguyên Chủ
nhiệm Ủy ban về Người Việt Nam ở nước ngoài và hiện là Viện phó Viện khoa học
công nghệ Phương Nam (thuộc Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam). Có người
anh như vậy nên thiếu úy NCD không “nằm
vùng” mới là chuyện lạ!
Với những câu chuyện “nằm
vùng” điển hình ở mọi cấp chính quyền miền Nam kể trên, quân đội
miền Bắc ngày càng tiến dần đến thủ đô và người Sài Gòn ngỡ ngàng
trước biến cố 30/4/1975. “Tiên trách
kỷ, hậu trách nhân” có lẽ là một trong những triết lý thâm thúy
nhất được rút ra trong cuộc chiến vừa qua.
===
Chú thích:
[1] Chương trình Chiêu
hồi phát động dưới thời Đệ nhất Cộng hòa vào đầu năm 1963 theo hai mô hình
mẫu của Phi Luật Tân và Mã Lai Á: (1) chương trình EDCOR của Philippines
để chiêu dụ lực lượng cộng sản Hukbalahap và (2) chương trình của Sir Robert
Thompson thuộc quân đội Anh để bình định tại Malaysia.
Chương trình này trực thuộc Bộ Công dân vụ của Bộ trưởng Ngô
Trọng Hiếu và một thời mang tên Phong
trào Chiêu tập Kháng chiến Lầm đường. Sau năm 1963 được phân thành Ban Chiêu Hồi trực thuộc Phủ Thủ tướng.
Năm 1965 lại được chuyển sang Bộ Thông tin. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa thì chính
phủ nâng Phủ Đặc ủy Dân vận Chiêu hồi
thành Bộ Chiêu hồi để điều hành hệ thống chiêu hồi trên khắp 44 tỉnh thành của
bốn vùng chiến thuật, mỗi tỉnh có một Ty
Chiêu hồi.
Huy hiệu ngành Chiêu hồi
Năm 1967, chính phủ đưa ra chính sách Đại đoàn kết. Theo đó thì các thành phần hồi chánh không những được
giúp đỡ để tái định cư và đoàn tụ cùng gia đình mà còn được trưng dụng tài năng
tương xứng với công việc ở bên kia chiến tuyến. Chính sách này chưa mấy hiệu
quả thì sự kiện Tết Mậu Thân năm
1968 xảy ra. Biến cố này làm gián đoạn chương trình Chiêu hồi vì tình hình an
ninh bất ổn, nhưng đến năm 1969 thì số lượng hồi chánh lại tăng, đạt tổng số
47.023 người trong năm 1969.
Trong thời gian từ năm 1963 đến 1973 chương trình Chiêu hồi
thâu nhận hơn 194.000 người hồi chánh, tức là loại được bấy nhiêu quân đối
phương khỏi chiến trường. Người Hồi chánh được chuyển vào 1 trong hơn 200 trại
để “học tập chính trị” trong thời gian từ bốn đến sáu tuần. Cùng lúc đó, họ
được phát quần áo và thức ăn, đến khi xuất trại thì trả về nguyên quán hoặc
định cư ở những vùng ấn định. Một số được kết nạp vào Cục Tâm lý chiến. Ngày
18/2/1973 Bưu chính VNCH cho phát hành con tem "Chiêu hồi" với giá tiền10 đồng để kỷ niệm người hồi chánh
thứ 200.000.
Tem Chiêu-Hồi của VNCH
[2] Nguyên Hùng là một trong số những nhà văn, nhà
báo “nằm vùng” hoặc “thiên Cộng”. Trong số này phải kể
đến Vũ Bằng, Vũ Hạnh, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Thiếu Sơn, Lý Văn Sâm... Sau này
còn được bổ sung thêm một đội ngũ trẻ hơn và giữ những vai trò gây tác động
trong đời sống báo chí và chính trị miền Nam như Huỳnh Bá Thành (còn được
biết đến qua tên Họa sĩ Ớt trên báo Điện Tín), Cung Văn, Hoàng Thái
Nguyên, Nguyễn Ngọc Thạch, Hoàng Minh Phương, Kỳ Nhân...
[3] Phạm Ngọc Thảo (1922-1965) cùng 12 người từ miền Nam
được cử ra Sơn Tây để theo học Khóa 1 trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào năm
1946. Khi ra trường, Thảo được điều về Phú Yên với nhiệm vụ giao liên. Trong
thời gian này, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ vào Nam , đó chính
là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.
Thảo được giao nhiệm vụ Trưởng
phòng Mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – là tổ chức tình báo đầu tiên của miền
Bắc ở Nam Bộ. Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn
quân sự) đều được “tập kết” ra Bắc.
Cũng có một số ít cán bộ đã được lệnh bí mật ở lại để “nằm vùng”, trong đó có PNT ở lại
miền Nam để hình thành “lực lượng
thứ ba” theo lệnh của Lê Duẩn.
Dưới vỏ bọc của một giáo sư, Thảo về dạy học tại
trường Nguyễn Trường Tộ, Vĩnh Long, thuộc giáo phận của Giám mục Ngô
Đình Diệm, anh của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giám mục Ngô Đình Thục rất
quý mến Thảo, ông đã từng làm lễ rửa tội cho Thảo và coi như con nuôi. Chính
Giám mục Thục đã giới thiệu ông với “cố vấn” Ngô Đình Nhu để vào làm việc ở
Sở Tài chánh Nam Việt.
Nhờ chính sách “đả
thực, bài phong”, khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với chính
nghĩa quốc gia của Ngô Đình Diệm, PNT đã khôn khéo công khai hết quá khứ
theo kháng chiến của mình, chỉ trừ một điều không nhận là Đảng viên Đảng
Cộng sản. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc
tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang cấp bậc Đại uý
“đồng hóa”.
PNT còn được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân
vị (Vĩnh Long) và sau đến tháng 10/1956 gia nhập đảng Cần Lao, phụ trách tổ
quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn
luyện quân sự cho các đảng viên. Trong hàng ngũ Quốc gia, Thảo đã viết 20
bài báo trên tạp chí Bách Khoa nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật,
nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng
Đạo....
Những bài báo đó đã được giới quân sự chú ý và nâng cao tên
tuổi của PNT. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị tại Phủ tổng thống, thực chất là cơ
quan mật vụ của Bác sĩ Trần Kim Tuyến. Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ
huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, PNT được thăng thiếu tá và được
cử làm Thanh tra Khu Trù Mật.
Năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát, Đại
tá Bùi Dzinh và Trung tá Lê Hoàng Thao đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê
Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất nhằm
lật đổ chính phủ của Tướng Nguyễn Khánh. Hội đồng tướng lãnh cử
Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm
Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Khi biết tin quyền
lãnh đạo đã rơi vào tay các tướng lĩnh khác, Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.
Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không
có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn.
Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự “thay đổi chế độ”.
Có thể nói, với nhiệm vụ này, tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức
mạnh của một đạo quân.
[4] Phạm Xuân Ẩn (1927-2006), sinh tại xã Bình Trước, Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc
địa. Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Thực chất lúc này ông được
Việt Minh giao nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa quân sự và quân
đội từ Pháp sang Việt Nam và
từ Việt Nam
về Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động tình báo của ông, một trong khoảng 14
ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động tại miền Nam .
Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch
- Ủy viên Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược.
Năm 1953 tại rạch Cái Bát (Cà Mau) trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê
Đức Thọ (khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền
Nam), PXA được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1957, PXA qua Mỹ học ngành báo chí trong 3 năm và
khi về nước ông làm việc tại Sở
Nghiên cứu Chính trị của Bác sĩ Trần Kim Tuyến. Từ năm 1960 đến
giữa năm 1964, PXA làm việc cho Hãng thông tấn Reuters. Từ năm 1965 đến năm
1976 ông là phóng viên người Việt chính thức và duy nhất của tuần báo Time
tại Sài Gòn, ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The
Christian Science Monitor...
Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian
chiến tranh, sau khi biết tin PXA là một điệp viên, bực tức nói rằng: “Thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó”. Một
phóng viên khác, Peter Arnett, mềm mỏng hơn: “Tôi không biết phải xử lý ra sao đối với Phạm Xuân Ẩn. Tôi hiểu anh là
một người Việt Nam yêu nước, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị phản bội về phương diện
nghề nghiệp... Trong hơn một năm trời, tôi cảm thấy bị xúc phạm, nhưng sau đó
tôi lại nghĩ ra rằng chẳng qua đó là công việc riêng của anh”.
McCulloch từng là giám đốc các văn phòng của Time ở châu Á
nói: “Tôi có căm giận Phạm Xuân Ẩn không
sau khi tôi biết qua những hoạt động gián điệp của anh? Hẳn nhiên là không. Tôi
nghĩ Việt Nam
là quê hương của anh. Nếu tình thế đổi ngược lại, chắc tôi cũng sẽ làm như anh
mà thôi. Phạm Xuân Ẩn là đồng nghiệp của tôi và là một phóng viên sáng giá.
Phạm Xuân Ẩn có một sự hiểu biết tinh tường về hiện tình chính trị Việt Nam, và
đáng chú ý là những tin tức tài liệu của anh chính xác một cách lạ thường”.
PXA và Thủ tướng Phan Huy Quát
[5] Vũ Ngọc Nhạ
(1928-2002), tên thật Vũ Đình
Long, sinh tại Thái Bình,
tham gia Việt Minh sau ngày Toàn quốc
kháng chiến, gia nhập đảng Cộng sản năm 1947, năm 1951 trở thành Thị ủy viên của thị xã Thái Bình. Bị
kỳ thị vì xuất thân gia đình gốc địa chủ và Công giáo
nên đã bỏ Việt Minh, về sống
ở quê ngoại tại Phát Diệm, Ninh Bình.
Tại Ninh Bình, VNN tham gia Tổng bộ tự vệ Phát Diệm
do giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo. VNN trở thành phụ tá của hai vị tu sĩ khét tiếng chống Cộng này. Di cư vào Nam năm 1954, VNN tiếp tục phụ giúp việc đạo cho linh mục Hoàng Quỳnh tại giáo xứ Bình An (Sài Gòn)
cho đến ngày bị bắt.
Theo tiết lộ của Tiền
Phong Online, VNN đã từng là một
trong 300 đại biểu kháng chiến được mời về dự Hội nghị chiến tranh du kích đồng
bằng Bắc Bộ: “Sau
vài lần gặp gỡ, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn anh vào hàng
ngũ những người tiên phong làm công tác tình báo của Quân đội Nhân
dân Việt Nam. Chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài, anh được đích thân Chủ tịch
Hồ Chí Minh phái vào Nam hoạt động”.
Tại trại giam, VNN viết bản tường trình phân tích nguy cơ “đe dọa chế độ mà Ngô Tổng
thống đã dày công vun đắp” đã khiến Ngô Đình Cẩn, sau đó là cả Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm quan tâm
và chú ý. VNN đã khéo léo tiết lộ cho anh em họ Ngô biết rằng tất cả những ý kiến
trong tờ trình đều là chính
kiến của Giám mục Lê Hữu Từ.
Đánh giá rất cao trách nhiệm và sự sâu sắc của bản báo nguy chế độ, anh em Diệm
- Nhu đã mời Vũ Ngọc Nhạ về làm cố vấn.
Thâm nhập vào nền Đệ nhất Cộng hòa và nhanh chóng liên kết với các đồng chí “nằm vùng” của mình như Lê Hữu Thúy, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân
Hòe... VNN đã hình thành một mạng
lưới tình báo (Lưới A.22) nắm giữ các vị trí chóp bu trong chính
phủ Sài Gòn để khai thác tin tức
chiến lược.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
***
7 Comments on Multiply
nam64 wrote on Jul
10
Em rinh cái bài này về bên em nha, cám ơn anh.
nam64 wrote on Jul
11
Cái Word của em có vấn đề ....không làm ra được PDF File nửa.
Khi nào làm ra được Ròm cài vào đây cho anh.
nguyenngocchinh
wrote on Jul 11
Dạo này bận quá nên không có thì giờ post tiếp entry
cuối cùng trong loạt bài "Ngôn ngữ Sài Gòn xưa"... Đợi bài
cuối post xong Ròm làm luôn một file PDF cũng không muộn. Thăm em luôn
Vui-Mạnh.
songhong wrote on
Jul 22
Anh Chính ơi,
Tôi nhớ có lần anh viết là trong số những người sau 75 lộ diện là "ngưởi phiá bên kia" có nhạc sĩ Trần Văn Sanh. Anh có thể cho tôi biết thêm chi tiết về nhạc sĩ Sanh này không?
Tôi nhớ có lần anh viết là trong số những người sau 75 lộ diện là "ngưởi phiá bên kia" có nhạc sĩ Trần Văn Sanh. Anh có thể cho tôi biết thêm chi tiết về nhạc sĩ Sanh này không?
nguyenngocchinh
wrote on Jul 22
songhong said "Anh Chính ơi,
Tôi nhớ có lần anh viết là trong số những người sau 75 lộ diện là "ngưởi
phiá bên kia" có nhạc sĩ Trần Văn Sanh. Anh có thể cho tôi biết thêm chi
tiết về nhạc sĩ Sanh này không?”
Tôi hoàn toàn không biết gì về nhạc sĩ Trần Văn
Sanh. Có thể anh nhớ lộn đã đọc bài viết về nhạc sĩ này của một
tác giả khác. Thăm anh.
nam64 wrote on Jul
23
nguyenngocchinh
said “Tôi hoàn toàn không biết gì
về nhạc sĩ Trần Văn Sanh”
Em cũng đã tìm thử trên Google bên em, nhưng hổng có thấy gì
về nhạc sĩ có tên này.
songhong wrote on
Jul 23
Cám ơn anh Chính.
Đúng là tôi nhớ giăng nhớ cuội rồi, hay là trông gà hoá cuốc đấy. Đến cái lúc chẳng nhớ mình muốn gì nữa. Không biết nên vui hay buồn đây. Chúc anh thân tâm thường an lạc.
Đúng là tôi nhớ giăng nhớ cuội rồi, hay là trông gà hoá cuốc đấy. Đến cái lúc chẳng nhớ mình muốn gì nữa. Không biết nên vui hay buồn đây. Chúc anh thân tâm thường an lạc.
Chào Chú Chính, về Bác Phạm Ngọc Thảo, sau này cháu đọc nhiều thông tin trên báo được biết Bác Thảo bị hành quyết tại Biên Hòa, một số nguồn khác nói bị ở Thủ Đức,không biết thực hư ra sao, Chú có thể chia sẻ thông tin chính xác về việc này không ạ ! Cảm ơn Chú. Cháu Sang
Trả lờiXóaCho đến giờ, những thông tin chính xác về cái chết của Phạm Ngọc Thảo vẫn còn nhiều bí ẩn cho nên tôi chỉ có thể viết như trên (xin trích dẫn lại):
Xóa"Cuối cùng, Phạm Ngọc Thảo bị Cục an ninh quân đội (Số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm) bắt giữ và bị thủ tiêu ngày 17/7/1965 khi mới 43 tuổi".
Cảm ơn Chú Chính đã phản hồi ! Cháu đã đọc từng bài viết của Chủ và cháu cũng đã có thêm những kiến thức mới mà chưa được biết tới trước đây. Chúc Chú và Gia đình luôn Bình An & Hạnh Phúc.
Trả lờiXóaNNC viết:
Trả lờiXóaĐối với chính quyền VNCH, thuật ngữ “chém vè” chỉ tình trạng các cán binh “giã từ vũ khí” để ra “hồi chánh”.
Theo tôi biết khi quân đội VNCH đi hành quân thì mấy chú du kíck "chém vè" là quăng vũ khí và lặn xuống mấy cái ao,
đìa dùng/ ngậm ống đu đủ để thở hoặc chui xuống hầm bí mật được đào trong nhà hay ngoài vườn,chứ không có nghĩa của chữ "hồi chánh" như anh nói
Đàn anh nên(có thể) vào google để xem lại định nghĩa
Anh viết nhiều bài hay lắm mà tụi nó không làm khó anh à ?
Con cháu anh có đứa nào đi học ở nước ngoài như anh không ?
"Vịt kìu" Mĩ
Đúng như anh viết, "chém vè" có nghĩa VC quăng vũ khí để trốn tránh nhưng nghĩa rộng hơn là quy hàng hay còn gọi là hồi chánh.
XóaQua bài Saigon Stories của tháng 8/12 tôi đã tìm được các câu trả lời
XóaCám ơn anh đã có những bài viết hay để lại sự thật cho đám nhỏ sau này tìm hiểu
Vịt Kìu M
Cuc ANQD so 8 Nguyen Binh Khiem
Trả lờiXóaĐã sửa: số 8 (thay vì số 4) NBK. Cám ơn bạn.
Xóa