Thứ Hai, 22 tháng 4, 2019

Tản mạn cuối Tháng Tư


Trong lãnh vực văn chương, đã có hàng trăm tác phẩm cũng như bài viết về cuộc Chiến tranh Việt Nam. Người viết có thể là người Mỹ hoặc không phải là người Mỹ, do đó họ cũng có những cái nhìn rất khác nhau về biến cố chính trị - quân sự và cả xã hội trên đất nước Việt Nam.

Đối với Hoa Kỳ, Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất lịch sử. Những con số thống kê đã nói lên sự mất mát với 58.000 người Mỹ đã thiệt mạng, 3.000 quân nhân còn bị báo cáo là “mất tích”. Về kinh tế, cuộc chiến đã làm thất thoát 300 tỷ đô la với 3 triệu cựu chiến binh sống lay lứt bên lề xã hội Mỹ vì “hội chứng Việt Nam”.

Đó là những con số thống kê trong “Decent Interval” của Frank Snepp. Những con số này có phần thay đổi tùy theo nguồn, chính kiến và quan điểm của các tác giả khác. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là một vết thương cho đến ngày nay vẫn còn “rỉ máu” dù cuộc chiến đã chấm dứt cách đây hơn 40 năm.

Nhìn chung, các tác giả viết về ngày 30/4 có thể được chia thành hai nhóm: (1) những tác giả người Mỹ, và (2) những người “không-phải-là-người-Mỹ”. Phân loại theo quốc tịch như vậy, thực ra vẫn chưa chính xác vì còn nhiều yếu tố quan trọng, chẳng hạn như chính kiến hay quan điểm của người viết.

Năm 2005, một cuốn sách mang tựa đề “Khi đồng minh tháo chạy” được xuất bản tại San Jose. Tác giả cuốn sách là Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, giáo sư Kinh tế, Đại học Howard. Ông đã một thời làm phụ tá của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và sau đó làm Tổng trưởng Kế hoạch trong nội các chính phủ VNCH.

“Khi đồng minh tháo chạy”,
(Cơ sở Xuất bản Hứa Chấn Minh, San Jose, 2005)

Ngay trên bìa cuốn sách, bên dưới có dòng chữ “Sao chúng không chết phức cho rồi”, dịch thoát từ câu nói của Henry Kissinger “Why don’t these people die fast” (đây cũng là tiểu đề của Chương 13). Có thể coi đó là câu nói khiếm nhã mà người miền Nam “ghét cay, ghét đắng” Ngoại trưởng Kissinger dưới thời Tổng thống Richard Nixon.

Năm 1979, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã có một cuộc phỏng vấn trên báo “Der Spiegel” (Tấm Gương, Đức) về cuốn hồi ký của Henry Kissinger. Chỉ vài tuần sau, Kissinger đã gửi cho Tổng thống Thiệu một lá thư riêng (không đề ngày) với lời lẽ rất nhã nhặn để trình bày sự việc trong cuốn hồi ký. Bức thư có đoạn viết:

“Tôi có thể hiểu được sự cay đắng của ngài… Cuốn sách của tôi không ngớt lời ca tụng lòng can đảm và tư cách của ngài… Tôi không trông đợi thuyết phục được ngài nhưng ít nhất tôi có thể tin tưởng rằng lòng ân hận và kính trọng ngài vẫn còn trong tôi.

“Với những lời chúc tốt đẹp nhất.

Henry Kissinger”

(hết trích)

Henry Kissinger bị nhiều người coi là “tội phạm chiến tranh”

Tiến sĩ Hưng viết: “Khi viện trợ Mỹ bị cắt từ 25 tỉ đô la xuống còn 700 triệu đô la, ông Thiệu chua xót: "Mới vài ngày trước đây là 1 tỉ, bây giờ 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo vậy" (sách đã dẫn, trang 223).

Trong cơn khủng hoảng, Sài Gòn vừa cầu cứu Quốc hội Hoa Kỳ, vừa xin vay nợ nhiều nơi trên thế giới như ở Pháp, Nhật và gõ cửa cả hoàng cung của xứ dầu hỏa Saudi Arabia. Nhiều lúc Tiến sĩ Hưng phải dẹp bỏ tự ái khi lui tới Quốc hội Hoa Kỳ trong vai trò “không khác gì một kẻ ăn xin”.

Nhân dịp phát hành cuốn sách, đài VOA có phỏng vấn và ghi lại phát biểu của ông như sau:

"Tôi có 4 động cơ chính khi viết sách này:

“Thứ nhất, tôi muốn đặt lại vai trò và trách nhiệm của Hoa Kỳ. Do cơ duyên lịch sử run rủi, tôi đã được chứng kiến những gì đã xảy ra đằng sau hậu trường bang giao Việt-Mỹ vào những ngày tháng cuối cùng; và nghĩ là đã đến lúc viết ra một cách trung thực những gì mình đã chứng kiến để soi sáng cho lịch sử.

“Thứ hai: tôi muốn nói lên tiếng nói về phía Việt Nam. Rất nhiều sách đã được viết về thời gian kết thúc cuộc chiến, phần nhiều rất là thiên lệch, nhất là sách của các tác giả người Mỹ, họ viết theo quan điểm của họ.

“Thứ ba: tôi nghĩ đặc biệt đến giới trẻ Việt Nam, họ rất hoang mang, không hiểu rõ lịch sử, không đủ tài liệu để đọc. Nhiều em học sinh và sinh viên viết những bài essay về Việt Nam dựa trên tài liệu của thư viện hoặc Internet, tôi thấy có nhiều bài rất ngây ngô, thiên lệch. Tôi nghĩ rằng nếu tiếp tục để các em viết như thế này thì lịch sử sẽ không được trung thực. Vì thế tôi đã cố gắng ghi lại các tài liệu bằng tiếng Anh và để trong phần phụ lục cho các em tham khảo. Ví dụ như câu của Tiến sĩ Henry Kissinger: "biết ơn không phải là đặc tính của người Việt Nam", nếu chúng ta để các em trích câu đó vào các bài của mình thì làm sao đúng được.

“Lý do sau cùng: tôi nghĩ rằng tôi có trách nhiệm với chính cá nhân tôi sau khi có cơ hội được gần Tổng thống Thiệu và Đại sứ Martin trong những ngày tháng cuối cùng, và sau năm 1975, đã được tiếp xúc rất nhiều với hai nhân vật này, đã được nghe và ghi lại nhiều điều tâm huyết".

(hết trích)

Đại sứ Graham Martin trình ủy nhiệm thư lên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

Trước đó, năm 1986, Tiến sĩ Hưng viết cuốn “Palace File” và được dịch ra tiếng Việt với nhan đề “Hồ sơ mật Dinh Độc Lập” (HSMDĐL). Sách viết về mối bang giao Việt-Mỹ trong những năm cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, nhất là những biến cố xoay quanh hoà đàm và Hiệp định Paris (1973) về việc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam.

Cà hai cuốn sách nói trên ra đời trong sự “khen – chê” của cộng đồng người Việt tại hải ngoại cũng như trong nước. Trên BBC, Nguyễn Kỳ Phong nhận xét:

“Về căn bản, “Khi đồng minh tháo chạy” không có gì mới so với “HSMDĐL”… Trong khi trong HSMDÐL có những chi tiết có thể gây ra tranh luận, nhưng những chi tiết đó được trình bày với dẫn chứng và bằng sử liệu. Nhưng trong KÐMTC, nhiều chi tiết đã làm độc giả gãi đầu vì tác giả không cung cấp một tài liệu nào để chứng minh cho những nhận định đưa ra".

Cũng trên BBC, có đăng ý kiến trái chiều của Nguyễn Tường Tâm:

“Với 705 trang đầy ắp những dữ kiện, trong đó rất nhiều dữ kiện chưa từng được công bố liên quan tới bang giao giữa Hoa Kỳ và VNCH cho tới ngày tàn cuộc, cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” xứng đáng là cuốn hay nhất trong các cuốn sách cùng loại. Cuốn sách không cần phải đọc lần lượt từ đầu tới cuối mà có thể chọn bất cứ chương nào mình thích để đọc trước, điều đó giúp cho người đọc cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái... Ngoài thể bút ký, cuốn sách thực sự là "một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị...”.

“Khi đồng minh tháo chạy” được chia làm 5 phần: (1) Làm sao thoát khỏi vũng lầy; (2) Thân phận tiểu quốc; (3) Khi đồng minh tháo chạy; (4) Rước của nợ hay được của có?; và (5) Nhìn lại lịch sử. Ngoài ra, phần cuối sách còn có “Thay Lời Cuối”: Thiện tâm của nhân dân Hoa kỳ.

Năm phần chính được chia thành 20 Chương với những tiểu đề rất kêu và rất “sốc” như: Hãy giúp chúng tôi / Một ân huệ cuối cùng; "Sao chúng không chết phứt cho rồi!"; Vào để giúp… Ra lại bắn nhau?; Cái gậy và củ cà rốt...  

Ngay trong “Lời nói đầu”, tác giả đã khẳng định:

“Điều mà cuốn Khi đồng minh tháo chạy” muốn nhấn mạnh, nhất là cho người Việt Nam chúng ta rõ, là cung cách mà một số chính khách Hoa Kỳ, đặc biệt là ông Kissinger, và phần nào, hai ông Nixon, Ford cũng như một số Nghị sĩ, Dân biểu với con mắt thiển cận, đã hành xử đối với nhân dân Miền Nam. Nó phản bội nguyên tắc ‘’minh bạch’’ (transparency) của thể chế Dân Chủ, và đi ngược lại tinh thần công bình của đại đa số nhân dân Hoa Kỳ. Trong bóng tối, trước hết hai ông Kissinger, Nixon đã dùng thủ đoạn ép buộc Miền Nam đi theo đường lối của mình, mục đích chính chỉ là để cho Quân đội Mỹ rút đi, và tù binh được thả về. Khi Chính phủ Miền Nam phản kháng thì đe dọa với ‘’cái gậy’’ (đảo chánh và cắt viện trợ), và hứa hẹn với ‘’củ cà rốt’’ (bảo đảm hòa bình và viện trợ đầy đủ)”.

Phần cuối cuốn sách, Tiến sĩ Hưng viết một đoạn thật chua chát:

“Miền Nam đã đi vào dĩ vãng. Nhưng còn tàn dư của cuộc chiến, và đối với những người bại trận thì sao đây? Chẳng thấy ông Tổng thống Ford bình luận gì, hay là muốn lờ đi chăng? Chỉ thấy báo chí nói tới chính phủ đang cho di tản gấp rút số người Mỹ và một số người làm cho Mỹ. Nghe tin tức từ hành lang Quốc hội là tất cả cũng chỉ 50.000 người Việt thôi, tôi nhất định hoạt động tối đa để cứu vớt đám người đang tuôn ra Biển Đông”.

Tiến sĩ Nguyễn Tấn Hưng và tác phẩm “Khi đồng minh tháo chạy”

Ở một thái cực khác, cuốn “Decent Interval” của Frank Snepp được Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh dịch sang tiếng Việt với cái tên khá mỉa mai: “Cuộc tháo chạy tán loạn”, người dịch Ngô Dư.

Frank Snepp là một nhân viên tình báo CIA (Central Intelligence Agency – Cơ quan Tình báo Trung ương) của Hoa Kỳ. Nhiệm kỳ đầu tiên của Snepp khi đến Sài Gòn là từ năm 1969 đến 1971 trong vai trò một nhân viên tình báo. Lần thứ hai từ tháng 10/1972 cho đến ngày Sài Gòn thất thủ.

Trong “Decent Interval”, Frank Snepp kể lại một giai thoại về Graham Martin, đại sứ Mỹ cuối cùng tại Sài Gòn:

“Một hôm, ông nói với tôi: ‘Tôi là một người theo Jefferson. Chúng ta phải đối xử với người Việt Nam như Jefferson đã dạy chúng ta cách đối xử với đồng bào. Xen vào công việc của họ càng ít càng tốt'… Nhưng sau khi Sài Gòn thất thủ, ông đã thổ lộ với một đồng nghiệp ở bộ ngoại giao: Chưa bao giờ ông tin người Nam Việt Nam cả, làm như họ thua trận là họ đã phản lại ông”.  

Martin triệt để lợi dụng sự tín nhiệm của Tổng thống Nixon để tỏ rõ quyền lực của minh. Ông từ chối chưa đi Sài Gòn chừng nào mà Nhà Trắng chưa dành cho ông một máy bay riêng. Trong những buổi họp hoặc thảo luận với nhân viên, ông không ngừng nhắc lại rằng cấp trên duy nhất của ông là Kissinger. Do đó, khi đón tiếp vị Bộ trưởng Ngoại giao, ông ta để Kissiger ngồi bên trái mình.

Theo Snepp, trong số các cơ quan của sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, bộ phận khó điều khiển nhất là Phái bộ quân sự với 400 nhân viên quân sự, 50 cựu sĩ quan quân đội và 2.500 viên chức dân sự Mỹ làm việc theo hợp đồng. Mùa Hè năm 1973, Washington giảm số nhân viên ở đây xuống mức thấp nhất.

Mặc dù có ngưng bắn, Martin đã phản đối kịch liệt việc thu hẹp số nhân viên này. Ông cho rằng văn phòng của tùy viên quân sự rất cần cho sự sống còn của Sài Gòn và Cơ quan Thông tin (United States Information Service – USIS) sẽ bổ sung và đối chiếu với cơ quan tình báo CIA.

Ông cũng cho rằng phái bộ quân sự rất cần đối với ông để dò xét thái độ của người Việt, trong đó có cả Tổng thống Thiệu. Ông vẫn cho rằng nhà binh thường kính trọng lẫn nhau nên ông đề nghị với tướng Murray và bộ tham mưu nắm chặt giới quân sự Nam Việt Nam.

Sở thông tin Hoa Kỳ cũng đã tăng cường nhân viên của mình tại Sài Gòn. Giám đốc cơ quan này là Alan Carter, không phải là người của Martin và hơn thế, không đồng ý với nhận định “xấu xa” về giới báo chí của ông Đại sứ.

Carter tán thành việc tiếp xúc thân mật, trực tiếp với báo chí và phản đối việc coi họ là kẻ thù. Tuy nhiên, ông nhanh chóng bị bỏ rơi, không được dự các buổi họp nội bộ do Đại sứ chủ tọa, không được xem các bức điện gửi đến. Còn Đại sứ thì ra lệnh tất cả các câu hỏi của giới báo chí, đều phải đưa cho John Hogan, một nhân viên kỳ cựu dưới thời đại sứ Bunker.

Theo Snepp, Hogan được giữ lại làm việc vì đã tâng bốc những ý kiến của Martin. Chính Hogan - nghề chính là viết những bài hát - được giao nhiệm vụ thảo những bài đả kích cay độc của Đại sứ chống giới báo chí.

Tòa Đại sứ Hoa Kỳ trước năm 1975

Trong tất cả các nhân viên ở sứ quán, người nguy hiểm nhất đối với Martin là Tom Polgar, thủ trưởng của Frank Snepp, người gốc Hungary. Polgar có những nguồn tin độc lập và điều khiển cơ quan một cách độc lập, không có gì để phải sợ ông Đại sứ. Ông cho rằng chi nhánh CIA đã cung cấp những tin tức rất có lợi cho Martin và chính Martin nợ Polgar chứ không phải ngược lại.

Tuy vậy, trong các nhân viên cao cấp ở sứ quán, chính Polgar lại là người tỏ ra kính trọng và nể phục Martin nhất. Mặc dù hai người có nhiều điểm không giống nhau và có khi chống đối nhau, nhưng cuối cùng, hai người trở thành hai con ngựa kéo chung một cỗ xe, rất hợp nhau.

Snepp thêm một chi tiết về tính khôi hài của Polgar: “Trong văn phòng của ông có một bức tranh đáng chú ý, phác họa một Việt cộng đâm ngọn giáo vào một con voi trong khi có một Việt cộng khác đang giơ cao một cái búa lớn định đập nát đầu con thú. Dưới bức tranh, có chú thích: "Cuộc tiến công cuối cùng của Việt cộng: pháo binh nặng".

Theo Snepp, cả Hà Nội và Sài Gòn cũng lấn chiếm “vùng giải phóng” một cách trái phép, vi phạm những qui định của Hiệp định Paris năm 1973 về Việt Nam. Quân Bắc Việt thực sự không đánh quân VNCH bằng vũ khí mà lại tiến vào những vùng phòng thủ yếu nhất nhưng lại có nhiều khả năng kinh tế.

Trong những tháng sau ngừng bắn, trên thị trường Nam Việt Nam, giá cả tăng 65%, số người thất nghiệp tăng vùn vụt sau khi người lính Mỹ cuối cùng ra đi. Viện trợ kinh tế của Washington giảm nhiều do lạm phát trên thế giới. Điều bi đát là chiến tranh ở Trung Đông, do cấm vận dầu lửa nên giá “vàng đen” của các nước Ả Rập tăng gấp bốn lần.

Rõ ràng chiến thuật của Hà Nội là đánh chớp nhoáng để làm suy yếu nền kinh tế và gây hoang mang trong dân. Ngày 6/11/1973, khoảng một sư đoàn quân đội Bắc Việt mở cuộc hành quân chiến thuật đầu tiên, tiêu diệt ba vị trí tiền tiêu ở phía Tây Bắc Sài Gòn.

Có sự trùng hợp là lúc ấy Quốc hội Mỹ đang tranh luận gay gắt về việc hạn chế quyền của Tổng thống trong việc sử dụng lực lượng quân sự. Ngày 7/11, Hạ nghị viện cũng như Thượng nghị viện đều bác bỏ phủ quyết của Tổng thống và thông qua “Luật đặc biệt”, ghi rõ những hạn chế.

Luật về quyền trong thời chiến nói rằng: “Không được Quốc hội chuẩn y thì Tổng thống không được phép cho lực lượng Hoa Kỳ tham chiến quá 60 ngày”. Hà Nội biết rất rõ quyết định này cũng như tình trạng “bất lực” của Nixon.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Richard Nixon

Cơ quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn theo dõi chặt chẽ tình hình chính trị ở Hà Nội. Họ mở những cuộc “tấn công chiến thuật” và cơ quan tình báo của Snepp nhận được rất nhiều báo cáo của các nhân viên.

Về phần mình, Polgar không chỉ gửi bức điện riêng cho CIA, ông còn muốn phổ biến rộng rãi trong các giới chính thức ở Washington. Do đó, tự ông làm một bản báo cáo chống lại. Ông viết:

"Không có một chứng cớ nào chứng tỏ tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn sa sút. Trái với điều báo chí đăng, những nhiệm vụ chính của chính phủ tiếp tục được thực hiện. Cảnh sát Quốc gia duy trì trật tự công cộng, không có bãi công, thư từ chạy đều dù đó không phải là tình hình của một số nước có trình độ phát triển hơn”.

“Rõ ràng là phần lớn dân cư tiếp tục sống bình thường và trong cái xã hội độc ác này, họ rất biết xoay sở. Mỗi ngày, họ cũng tỏ ra chịu đựng, dễ bảo và tháo vát. Số dân tăng 3% mỗi năm, điều đó chứng tỏ sức sống và sự tin tường vào tương lai của họ. Ở Việt Nam, không phải chỉ có những kẻ nghèo hay kẻ dốt mới biết sinh đẻ".

(hết trích)

Sự phân tích của Polgar thành thật đến mức… buồn cười. Nhưng bộ chỉ huy CIA ờ Washington từ chối không gửi bản báo cáo của ông đến những quan chức cao cấp như Kissinger, Tổng thống Nixon và nhiều người khác. Snepp viết:

“Đó là lần thứ nhất trong nghề nghiệp của tôi, tôi thấy người ta không đếm xỉa gì đến việc nghiên cứu tại chỗ những tin tức”. 

Frank Snepp

***

Chúng ta đã lướt qua 2 cuốn sách đã dẫn, được viết bởi hai người: Việt Nam và Hoa Kỳ. Chúng ta cũng thấy rõ quan điểm của từng tác giả. Có điều chúng ta không biết gọi ngày 30/4/1975 bằng từ ngữ nào cho chính xác.

Cuộc tháo chạy của người Mỹ khỏi một cuộc chiến không lối thoát ư? Hay đó là tình trạng đồng minh rút quân bỏ lại một người bạn đã từng sát cánh trong một cuộc chiến? Đó là “bỏ rơi”, “phản bội” hay “bội ước”?

Có người lại cho rằng miền Nam Việt Nam chỉ là một con chốt trên bàn cờ chính trị quốc tế. Nếu nghĩ như vậy, việc “thí chốt” sẽ là điều bình thường trong một ván cờ. Nhưng người ta quên rằng, “con chốt” cũng có những suy nghĩ của nó chứ không hoàn toàn “vô tri, vô giác”!

Cũng vì lý do đó, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn “rỉ máu” đối với cả kẻ thắng lẫn người thua, người Việt cũng như người Mỹ!


***

* Tham khảo: “TT Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn báo Der Spiegel về cuốn hồi ký của Henry Kissinger”


***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

:) :( :)) :(( =))

Popular posts