Hai chữ “phi phàm” tôi mượn từ Bùi Giáng,
nhà thơ dưới mắt nhiều người vẫn thường thắc mắc không biết là “Điên hay Tiên”.
Bùi Giáng kể lại một câu chuyện giữa ông và nhà tu Tuệ Sỹ như sau:
“Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện
tiền vị liễu lạc hoa phi”
“Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền
vị liễu lạc hoa phi
Phiêu
bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải
đa tàm trúc loạn ty”
“Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình. Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm?
(hết trích)
Theo lời kể của Bùi Giáng, ông còn nói với
Tuệ Sỹ: “Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi.
Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài
quá lớn”.
Câu trả lời của Tuệ Sỹ khiến nhà thơ “Bàng Dúi” hoảng hồn, hoảng vía: “Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng?”
Cũng cần phải nói thêm về ni cô Trí Hải. Thích nữ Trí Hải (1938-2003) là một trong những giảng viên đầu tiên giảng dạy tại Thiền viện Vạn Hạnh và Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, từng làm Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Bà cũng là một tác gia và dịch gia Phật giáo.
Trở lại với Hòa thượng Tuệ Sỹ, tên thật là
Phạm Văn Thương, người gốc Quảng Bình nhưng lại sinh tại Paksé, bên Lào. Ông là
một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh
tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với
Chính phủ Việt Nam.
Ngày 1/4/1984, ông bị bắt cùng với Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát). Tổ chức Ân xá Quốc tế tin rằng nguyên nhân việc bắt giữ hai nhân vật này vì họ là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vào thời điểm chính quyền Việt Nam đang cố gắng kiểm soát hội Phật giáo.
Đầu năm 1978, ông bị đưa đi học tập cải tạo 3 năm, đến năm 1981 thì được trả tự do. Tháng 9/1988, ông và Lê Mạnh Thát bị tuyên án tử hình vì tội hoạt động lật đổ chính quyền. Tháng 11/1988, sau một cuộc vận động giảm án, bản án được giảm xuống còn tù chung thân.
Ngày 1/9/1998, ông được thả tự do từ trại Ba Sao-Nam Hà tại miền Bắc. Trước khi thả, nhà cầm quyền yêu cầu ông ký vào lá đơn xin khoan hồng để gửi lên Chủ tịch nước, ông trả lời: “Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi!”.
Công an nói không viết đơn thì không thả, nhưng ông vẫn không viết và bắt đầu tuyệt thực. Cuối cùng thì chính quyền đã phải phóng thích ông sau 10 ngày nhà tu tuyệt thực. Một năm sau đấy, cũng vì lý do tiếp tục hoạt động trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ông cùng thầy Thích Quảng Độ bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi.
Tin mới nhất cho biết nhà tu Tuệ Sỹ hiện đảm
nhận chức vụ Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất trong tình hình Phật giáo đang bị thao túng bởi một giáo hội “quốc doanh”
do nhà nước kiểm soát với định hướng “Đạo
Pháp - Dân tộc - Xã hội Chủ nghĩa”.
Sau khi lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là Hoà thượng Thích Quảng Độ - đức Đệ ngũ Tăng Thống - qua đời vào ngày 22/2/2020, Giáo hội vẫn chưa có đức Tăng Thống mới. Vì vậy, chức Chánh Thư Ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống hiện là chức vụ cao nhất của Giáo hội.
Kể từ khi có “giáo hội quốc doanh”, Phật giáo nổi lên với hiện tượng các nhà sư
hùng cứ tại những địa phương nên mới có câu “Nam
Nhật Từ, Bắc Thái Minh” (Thích Nhật Từ trụ trì tại chùa Giác Ngộ, phía Nam
và Đại đức Thích Trúc Thái Minh, chùa Ba Vàng, miền Bắc). Ngay chính “giáo hội quốc doanh” cũng tỏ ra “không thể kiểm soát” được những giáo hội
địa phương!
(Tham khảo bài viết “Nam Nhật Từ, Bắc Thái Minh” tại:
https://chinhhoiuc.blogspot.com/2022/09/nam-nhat-tu-bac-thai-minh.html)
Đời sống như một quán trọ, khách trọ đến rồi
đi. Sanh rồi tử, muôn trùng, thăm thẳm, vô biên, vô tận. Con người đắm chìm
trong cái quán trọ đó mà sinh ra đủ thứ chuyện để làm ngăn nẻo về của những bước
chân viễn mộng.
Vậy thì, bị ngăn nẻo về, không về được nên quay lại để sống với chính mình. Đóng cửa phòng, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nhịn đói, tuyệt thực. Ngày chỉ uống nước chanh pha đường. Có lúc xỉu trên bàn vì đói. Nhà sư đã thốt lên những câu thơ ai oán:
“Ta cưỡi kiến đi tìm tiên động
Cõi
trường sinh đàn bướm dật dờ
Cóc
và nhái lang thang tìm sống
Trong
hang sâu con rắn nằm mơ”
(“Giấc Mơ Trường Sơn” - An Tiêm, tr. 68, 2002)
Tuệ Sỹ, một nhà tu sinh năm 1943, chỉ cao 1.59m, cân nặng 39,5kg, ... nhưng trong ông tiềm tàng một năng lực “phi thường” (chữ của nhà thơ Bùi Giáng). Ông đã từng được tổ chức Human Rights Watch trao giải thưởng tranh đấu cho nhân quyền Hellman-Hammet Awards vào năm 1998.
Người ta tự hỏi, không biết “nhà tu gầy còm, ốm yếu” có thể làm gì trong cơn “pháp nạn” của Đạo Phật?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét