(http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/08/tham-vong-van-chuong.html).
Sở dĩ phải nhắc đến bài viết đó vì trong bài này có đề cập đến một công trình sưu tầm và dịch thuật Best Quotations – Danh Ngôn được biên soạn vào thời kỳ vừa ở trại cải tạo ra.
Đó là lúc tôi đang mầy mò tìm kế sinh nhai trong cuộc “đổi
đời” của Thời điêu linh. Tôi không nề hà bất cứ công việc gì, từ anh “lao động
phổ thông” đến chân trông hàng cho bà chị họ trong chợ Bình Tây. Tôi cũng đã
từng rong ruổi khắp Sài Gòn với chiếc xe đạp mini đi mượn từ bà cô ở đường Cống
Quỳnh, trên xe chở những “linh kiện” của bếp lò dầu hôi để đi bỏ mối cho những
“bạn hàng” trong chợ…
Ban ngày vật lộn với cuộc sống, tối về lại cặm cụi với những
quyển sách còn sót lại sau chiến dịch “đốt sách”. Best Quotations – Danh ngôn ra đời trong hoàn cảnh đó. Công trình sưu
tầm những “lời hay, ý đẹp” bằng tiếng
Anh – Pháp và tiếng Việt dày 616 trang, được đánh máy một nặt trên giấy pelure
và đóng dưới dạng “sách” năm 1989.
Best Quotations – Danh ngôn
Điều thú vị là ngày nay có những đứa cháu của tôi đã bắt đầu
tham khảo Best Quotations – Danh ngôn.
Sách được chia thành từng đề mục, từ Tình
yêu, Chính trị… cho đến Chiến tranh,
Hòa bình, được xếp theo thứ tự alphabet để dễ bề tra cứu, mỗi đề mục còn được
ghi số thứ tự những danh ngôn trích dẫn.
Tôi còn có tham vọng thêm vào phần chú thích tiểu sử các
danh nhân và xuất xứ nguồn gốc của các danh ngôn. Chỉ tiếc một điều là công
việc này còn đang dang dở vì có quá nhiều danh ngôn và cũng không ít danh nhân.
Phải thành thật nhìn nhận, đây là một công trình đầy tham
vọng, đòi hỏi một thời gian dài, chưa kể việc dịch thuật sang tiếng Việt vì
những “hoa thơm, cỏ lạ” đều có gốc từ tiếng Anh cũng có một số trường hợp tìm
được nguyên bản bằng tiếng Pháp.
Danh sách những danh nhân từ cổ chí kim ngày một dài theo
thời gian. Sử gia Plutarch [1], cho rằng: “Không
biết gì về cuộc đời của những nhân vật xưa nổi tiếng nhất là còn tiếp tục tình
trạng ấu trĩ trong cuộc đời của chúng ta” (To be ignorant of the lives of
the most celebrated men of antiquity is to continue in a state of childhood all
our days).
Plutarch cũng đã có một định nghĩa rất đơn giản nhưng thâm
thúy về cá tính và thói quen của con người: “Character
is simly a habbit long continued” (Cá tính chỉ đơn thuần là một thói quen
kéo dài), ông khuyên chúng ta “Do not
speak of your happiness to one less fortunate than yourself” (Đừng nói đến
hạnh phúc của mình với người kém may mắn hơn ta).
Chính trị gia người La Mã, Marcus Porcius Cato [2] đã để lại
cho đời những câu nói bất hủ: “An angry
man opens his mouth and shuts up his eyes” (Người giận dữ miệng mở, mắt
nhắm). Ông cũng là người khuyên ta “Buy
not what you want, but what you need; what you do not want is dear” (Đừng
mua những gì mình muốn, hãy mua những gì mình cần; những gì mình không muốn đều
đắt).
Một trong số những người để lại nhiều danh ngôn nhất phải kể
đến Francois de La Rochefoucauld [3] với 504 câu được xuất bản trong một cuốn
sách bằng tiếng Pháp: Maximes (Châm
ngôn). La Rochefoucauld viết về rất nhiều đề tài và thường những châm ngôn của
ông gây sốc đối với người đọc. Chẳng hạn như về đức hạnh, ông viết: “Nos
vertus ne sont, le plus souvent, que des vices déguisés” (Ðức hạnh thường
chỉ là những cái xấu được ngụy trang).
Về lòng tự ái, La Rochefoucauld cho rằng “L’amour-propre est le plus grand de tous
les flatteurs” (Tự ái là kẻ nịnh hót giỏi nhất) hoặc “L’amour-propre est plus habile que le plus habile homme du monde”
(Tự ái khôn khéo hơn cả người khôn khéo nhất đời).
Tính kiêu ngạo cũng được ông bàn đến rất tỷ mỉ. “L’orgueil est égal dans tous les hommes, et
il n’y a de différence qu’aux moyens et à la manière de le mettre au jour”
(Làm người ai cũng kiêu ngạo, có khác chăng là phương tiện và cách xử dụng nó)
và ông đưa ra một giải pháp: “Si nous
n’avions point d’orgueil, nous ne nous plaindrions pas de celui des autres”
(Khi ta không kiêu ngạo, ta sẽ không phiền trách tính kiêu ngạo của người khác).
Về sự đam mê, ông viết “La
passion fait souvent un fou du plus habile homme, et rend souvent les plus sots
habiles” (Ðam mê thường làm người khôn ngoan thành điên rồ và thường biến kẻ
ngu thành người khôn). Ông cũng đưa người đọc đến một khám phá hoàn toàn mới lạ
về sự ghen tương: “La jalousie se nourrit
dans les doutes, et elle devient fureur, ou elle finit, sitôt qu’on passe du
doute à la certitude” (Lòng ghen tương sống trong sự ngờ vực, trở thành cơn
phẫn nộ hay nó tự kết thúc ngay khi ta đi từ sự ngờ vực sang sự xác thực).
Ngày nay, người ta hay nói về “lợi ích nhóm” hay “nhóm lợi
ích”. Vào thời của La Rochefoucauld, lợi ích cũng đã được ông phân tích như
sau: “L’intérêt parle toutes sortes de
langues, et joue toutes sortes de personnages, même celui de désintéressé”
(Lợi ích nói bằng mọi ngôn ngữ và chơi với mọi hạng người, ngay cả với người vô
tư), ông cũng nhìn thấy tầm ảnh hưởng của nó: “L’intérêt, qui aveugle les uns, fait la lumière des autres” (Lợi
ích làm mù quáng người này, đem ánh sáng cho người khác).
Francois de La Rochefoucauld
Đồng hương của La Rochefoucauld, tướng Napoléon Bonaparte [4],
không chỉ là vị anh hùng nước Pháp mà còn là một nhà tư tưởng với hàng loạt những
lời hay, ý đẹp được người đời sau ghi nhận. Ông đã khuyên chúng ta, “Le meilleur moyen de tenir sa parole est de
ne jamais la donner” (Cách tốt nhất để giữ lời là đừng bao gìờ hứa).
Liên hệ đến các nguyên thủ trên thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng, nhiều lãnh đạo cao cấp đã hứa rất nhiều nhưng thực hiện chẳng bao
nhiêu! Hình như Napoléon cũng thấy được “căn bệnh” này của các vị đứng đầu nhà
nước nên ông để lại một danh ngôn cho họ:“Le
coeur d'un homme d'Etat doit être dans sa tête” (Trái tim của một nguyên thủ
quốc gia phải được đặt ở trong đầu)!
Hơn thế nữa, Napoléon còn khẳng định,“Du sublime au ridicule, il n'y a qu'un pas” (Từ sự cao cả đi đến
sự lố lăng chỉ có một bước) và đối với những kẻ xu nịnh một cá nhân hoặc một
chế độ ông đã lên tiếng cảnh báo: “Qui
sait flatter sait aussi calomnier” (Ai biết nịnh thì cũng biết vu khống).
Napoléon nhìn rất rõ những giai đoạn lịch sử đã qua của thế
giới để đi đến kết luận: “Le canon a tué
la féodalité; l'encre tuera la société moderne” (Súng đại bác đã giết chế
độ phong kiến, bút mực sẽ giết xã hội tân tiến). Phải chăng cái gọi là “xã hội
hiện đại” ngày nay không bị đe dọa bởi súng đạn mà chính là ngòi bút của báo
chí thường được gọi là “lề phải” ở Việt Nam?
Nhà văn Pháp, Victor Hugo [5] có nhiều câu được xếp vào kho
tàng danh ngôn: “Những lời nặng nề, cay
đắng biểu thị một lý lẽ yếu đuối” (Strong and bitter words indicate a weak
cause) hay đưa ra một nghệ thật sống ở đời: “Thận
trọng là con trưởng của sự khôn ngoan” (Caution is the eldest child of
wisdom).
John Dewey [6] một trong những nhà tư tưởng sư phạm nổi
tiếng của Mỹ, ông chủ trương: “Give the
pupils something to do, not something to learn; and the doing is of such a
nature as to demand thinking; learning naturally results” (Cho học sinh một
việc để làm, không phải một việc để học tập, và sự làm việc đó có tính cách đòi
hỏi phải suy nghĩ, thì việc học tập sẽ tự nhiên xảy ra).
Ông cũng xác định “The
person who really thinks learns quite as much from his failures as from his
successes” (Người biết thực sự suy nghĩ sẽ học được từ các thất bại cũng
gần bằng như từ các thành công của mình), về mục tiêu, Dewey khẳng định: “Arriving at one goal is the starting point
to another” (Ðạt được một mục tiêu là bước khởi đầu để đi đến một mục tiêu
khác).
“I believe, finally,
that the teacher is engaged, not simply in the training of individuals, but in
the formation of the proper social life” (Cuối cùng, tôi tin rằng, thầy cô
giáo không phải chỉ cốt nhằm vào việc huấn luyện những cá nhân, mà phải nhằm
vào việc đào tạo cho một đời sống xã hội thích hợp).
***
Nói về tình yêu, trong tập thơ The Prophet (Ngôn sứ) Kahlil Gibran [7], nhà thơ người Mỹ gốc Li
Băng, đã định nghĩa như sau:
“Love gives naught but
itself and takes naught but from itself
(Tình yêu không cho đi và nhận về những gì khác hơn là chính nó)
Love possesses not nor
would it be possessed
(Tình yêu không chiếm hữu và cũng không bị chiếm hữu)
For love is sufficient
unto love
(Vì chỉ tình yêu là đủ đối với tình yêu)
Dưới đây là những vần thơ của Abraham Cowley (1618 – 1667),
nhà thơ người Anh, về một tình yêu đau khổ:
“Of all the pain, the
greatest pain,
It is to love, but
love in vain”
Được phỏng dịch sang tiếng Việt:
“Trong mọi khổ đau,
niềm đau vĩ đại,
Là trót yêu người
không hề yêu lại”
Nhà văn người Tây Ban Nha, Miguel De Cervantes [8], đã để
nhân vật Don Quixote than thở: “Such is
the nature of women… not to love when we love them, and to love when we love
them not” (Đó là bản chất của phụ nữ… không yêu khi ta yêu họ, và yêu khi
ta không yêu họ).
Nhà sử học người Anh, Thomas Fuller (1608 – 1661), bàn về
tình yêu và sự nghèo khổ: “When poverty
comes in at the door, love creeps out at the window” (Khi cái nghèo đi vào
nhà bằng cửa lớn, tình yêu bò qua cửa sổ).
Tình yêu và hôn nhân là hai đề tài được nói đến nhiều nhất
trong số các danh ngôn. Nhưng giữa tình yêu và hôn nhân có gì khác biệt? Giacomo
Girolamo Casanova de Seingalt (1725 – 1798), người nổi tiếng với danh hiệu “womanizer”
(người quyến rũ phụ nữ) thường được biết đến qua tên Casanova, phân biệt một
cách đơn giản: “Love is more interesting
than marriage, for novel is more interesting to read than history” (Tình
yêu thích thú hơn hôn nhân, vì tiểu thuyết đọc vui hơn lịch sử).
Ngạn ngữ Pháp so sánh một cách thi vị hơn: “Love is the dawn of marriage, and marriage
is the sunset of love” (Tình yêu là bình minh của hôn nhân, và hôn nhân là
hoàng hôn của tình yêu).
Triết gia người Pháp, Blaise Pascal (1623 – 1662), chia hôn
nhân thành 3 giai đoạn: “To many couples,
there are three periods after marriage: He says and she listens – She says and
he listens – They botth say and everybody listens” (Đối với nhiều cặp vợ
chồng, sau khi cưới thường có 3 giai đoạn: Chàng nói, nàng nghe – Nàng nói,
chàng nghe – Cả hai đều nói, mọi người nghe).
Ở một mức độ còn khôi hài hơn nữa, học giả Sydney Smith (1771
– 1845) dùng hình tượng lưỡi kéo để mô tả hôn nhân: “Marriage resembles a pair of shears, so joined that they can not be
separated; often moving in opposite directions, yet always punishing anyone who
comes between them” (Hôn nhân giống như một cái kéo, được gắn chặt với nhau
để không bị tách rời; lưỡi kéo thường chuyển động theo hướng đối nghịch nhưng
luôn luôn trừng phạt bất cứ kẻ nào chen vào giữa).
Nếu tình yêu và hôn nhân được đề cập nhiều trong số các lời
hay, ý đẹp thì chiến tranh và hòa bình cũng xuất hiện không ít trong kho tàng
các danh ngôn. Tướng Ulysses Simpson Grant (1822 – 1885) trong cuộc nội chiến
giữa hai miền Nam
– Bắc Mỹ đã phân trần: “I have never
advocated war, except as a means of peace” (Tôi không bao giờ cổ súy chiến
tranh, ngoại trừ khi sử dụng nó như một phương tiện để dành hòa bình).
Tổng thống George Washington (1732 – 1799) và cũng là cha đẻ
của nước Mỹ, đã từng tuyên bố: “To be
prepared for war is one of the most effectual means of preserving peace”
(Chuẩn bị cho chiến tranh là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để bảo
vệ hòa bình).
Trong tác phẩm lịch sử Henry
VI, William Shakespeare [9] viết: “O
war! Thou son of hell” (Ôi chiến tranh! Ngươi là đứa con của địa ngục). Nhà
khoa học chính trị Niccolo Machiavelli (1469 – 1527) lại khẳng định: “One wages a war when he wants, and ends it
when he can” (Người ta gây ra chiến tranh khi muốn, và chấm dứt lúc nào có
thể).
***
Trong Best Quotations
– Danh ngôn thỉnh thoảng có chen lẫn những ngạn ngữ xuất xứ từ các nền văn
hóa của các nước. Tôi nghĩ, chúng cũng xứng đáng chiếm một chỗ trong kho tàng
danh ngôn dù không phải là lời của cá nhân danh nhân mà là kinh nghiệm của cả
một nền văn hóa hay một dân tộc. Những lời khuyên, những nhận xét dưới hình
thức ngạn ngữ bao giờ cũng có tính cách của danh ngôn giúp người ta sống đẹp và
sống tốt.
Ngạn ngữ Anh có câu: “It
is easier to fall than to rise” (Ngã dễ hơn là ngồi dậy) là cả một bài học
giúp ta biết vượt qua thất bại để làm lại một tương lai. Người Anh cũng tin là “Good fame sleeps, bad fame creeps” (Tiếng
tốt ngủ ngon, tiếng xấu bò lết).
Người Marốc cho rằng “Chỉ
có con lừa mới chối bỏ gia đình của nó” (None but a mule denies his family)
trong khi người Đức lại quả quyết “The
eyes believe in themselves, the ears others” (Con mắt tin nơi chính nó, lỗ
tai tin những người khác).
Người Nga cho rằng “To
women, it’s hard to forgive, but easy to forget. To men, it’s easy to forgive,
but hard to forget” (Đối với đàn bà, tha thứ thì khó nhưng lại dễ
quên. Đối với đàn ông, tha thứ thì dễ
nhưng lại khó quên).
Ngạn ngữ Ả Rập phân tích một cách rắc rối về 4 hạng người
trên thế gian, nhưng sau khi đọc và suy nghĩ ta thấy quá đúng:
(1) “He who knows not
and knows not he knows not, he is a fool – shun him”
(Kẻ không biết, và không biết là mình không biết, hắn là kẻ
ngu – hãy tránh hắn)
(2) “He who knows not
and knows he knows not, he is a simple – teach him”
(Kẻ không biết và biết là mình không biết, hắn là kẻ chất
phác – hãy dạy hắn)
(3) “He who knows and
knows not he knows, he is asleep – wake him”
(Kẻ biết và không biết là mình biết, hắn là kẻ ngủ mê – hãy
đánh thức hắn)
(4) “He who knows and
knows he knows, he is a wise – follow him”
(Kẻ biết và biết là mình biết, hắn là người khôn – hãy theo
hắn)
Cũng vì thế mà triết gia Hy Lạp Cổ đại Socrates (469–399
TCN) khuyên mọi người “Know thyself”
(Hãy tự biết mình) còn P. J. Toulet (1867 – 1920) cụ thể hơn, “Learn to know yourself, you’ll love yourself less; and to know others:
you’ll love them more” (Hãy học cách tự hiểu biết về mình, bạn sẽ yêu mình
ít hơn; và hiểu biết về kẻ khác: bạn sẽ yêu họ nhiều hơn).
Còn rất nhiều danh ngôn được xếp vào loại “Luật vàng xử thế” (The golden rules).
Phương Đông có lời khuyên của Đức Khổng Tử “Kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân” (What you do not want others to do to you, do
not do to others – Những gì mình không muốn người khác làm cho mình thì đừng
làm cho người).
Ở phương Tây, Edmund Burke (1729 – 1797), nhà văn, nhà hùng
biện người Ireland
cũng rất nhẹ nhàng trong xử thế: “He that
wrestles with us strengthens our nerves and sharpens our skills. Our antagonist
is our helper” (Kẻ chống lại ta sẽ làm thần kinh ta vững mạnh, tài năng ta
bén nhọn. Kẻ chống ta chính là kẻ giúp ta).
Các nền văn hóa khác nhau nhưng lại cũng có những ngạn ngữ
giống nhau. Câu “Man proposes, God
disposes” chẳng khác gì câu nói mà người Việt vẫn thường tự an ủi mình khi
thất bại: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại
thiên”. Tiếng Việt có câu nói “Khi
thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo” trong khi
tiếng Anh lại diễn tả một cách đơn giản “Faults
are thick where love is thin” (Khuyết điểm dày khi tình yêu mỏng).
Đơn giản hơn, người Anh nói “To fish in troubled waters” cũng tương tự như câu “Đục nước béo cò” hoặc “To đầu mà dại” được chuyển ngữ sang
tiếng Anh bằng câu: “A big head and
little mind”.
Tác giả của danh ngôn cũng có thể là một người vô danh
(anonymous) nhưng vì những câu nói của họ vừa hay lại vừa chí lí nên người ta
vẫn có thể xếp chúng vào loại danh ngôn không tác giả. Chẳng hạn như câu: “Fashions are things that change so quicky
that you can recognize your girlfriend only over the telephone” (Thời trang
là những thứ thay đổi nhanh đến nỗi bạn chỉ có thể nhận ra người bạn gái của
mình qua điện thoại).
Và đây là chân dung thực nhất của hoạt động ngân hàng qua
nhận xét của một người vô danh: “A banker
is a man who lends you an umbrella when the weather is fine, and takes it away
from you when it rains” (Chủ ngân hàng là người cho bạn mượn dù khi thời
tiết tốt, và lấy nó khi trời mưa).
Ai đó đã có một câu rất chí lí khi định nghĩa “Mọt sách là người thích đọc hơn ăn” (Bookworm
is a person who would rather read than eat) và cũng một người nặc danh đưa ra
lời khuyên: “Đọc mà không suy nghĩ cũng
giống như ăn mà không tiêu hóa” (Reading without thinking is like eating
without digesting).
Theo tôi, thú vị nhất là nhận xét “Hôn nhân là một cuốn tiểu thuyết trong đó các nhân vật chính chết ngay
từ chương đầu” (Marriage is a novel in which the main characters die in the
first chapter). Dĩ nhiên có nhiều người tìm thấy hạnh phúc thật sự trong hôn
nhân chứ không phải như một người bi quan nào đó đã thốt lên những lời dí dỏm
như vừa dẫn.
Tôi luôn nghĩ việc sưu tầm danh ngôn là cần thiết vì chúng
là những bài học ngắn gọn nhưng xúc tích giúp ta tìm hiểu vấn đề một cách thấu
đáo hơn. Tuy nhiên, cũng cần phải sáng suốt nhìn nhận những điều người xưa nói
ra chưa chắc là chân lý, có chăng chỉ là những mảnh ghép giúp ta có một cái
nhìn khái quát về một chủ đề nào đó.
Karl Marx (1818 – 1883), người nổi tiếng trong
lịch sử đấu tranh giai cấp qua Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei), là một trường hợp
gây nhiều tranh cãi.
Khi Marx nói “Religion
is the opium of the people” (Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân) và “Relegion is the heart of the heartless
world” (Tôn giáo là trái tim của thế giới không trái tim) ông thể hiện rõ
quan điểm của một người duy vật. Những người duy tâm chắc chắn không thể đồng ý
với quan điểm của ông về vấn đề này.
Chủ thuyết vô thần cũng bị một số người phê phán. Theo nhà
thơ người Anh, Edward Young (1683 - 1765), “By
night, an atheist half believes in God” (Về đêm, kẻ vô thần nửa tin nơi
Thượng đế) hoặc triết gia Francis Bacon (1561 – 1626) tin rằng “Atheism stays on the lips, rather than in
the heart of men” (Chủ thuyết vô thần chỉ nằm trên chóp lưỡi đầu môi hơn là
trong tim của con người).
Cụ thể hơn, một người vô danh cho rằng “Standing by the bed of their dying mothers, many atheists have cried:
‘My God’ (Đứng bên giường người mẹ đang hấp hối, nhiều kẻ vô thần đã khóc ‘Trời
ơi’) hay nói một cách dí dỏm “I am an
atheist, thank God” (Tôi là kẻ vô thần, xin cám ơn Thượng đế).
Nhân nói về tôn giáo, người ta cũng thấy xuất hiện một số
danh ngôn từ các tôn giáo như Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước của đạo Cơ Đốc,
kinh Koran trong Đạo Hồi, Kinh Talmud của Do Thái Giáo, kinh của Phật Giáo... Thánh kinh dạy rằng “There is no new thing
under the sun” (Không có điều gì mới lạ dưới ánh mặt trời) hoặc lời khuyên các
tín đồ về tiền bạc: “The love of money is
the root of all evil” (Lòng yêu thích tiền bạc là cội nguồn của mọi xấu
xa).
Kinh Talmud mặc định “He
who talks too much commits a sin” (Kẻ nói quá nhiều sẽ phạm tội) và hướng
dẫn cách chọn vợ cũng như chọn bạn: “Descend
a step in choosing a wife, ascend a step in choosing thy friend” (Hãy hạ
mình một bậc trong việc chọn vợ, vươn lên một bậc trong việc chọn bạn).
Kinh Koran cảnh báo người Ả Rập: “There is a devil in every berry of the grape” (Trong mỗi quả nho đều
có một con quỷ) và có một loại ma quỷ khác: “Haste
is of the devil” (Nóng vội thuộc về ma quỷ).
Đức Phật dạy: “Con
người trước tiên phải hướng bản thân mình về chánh đạo. Chỉ khi đó mới nên dạy
dỗ kẻ khác” (A man should first direct himself in the right way he should
go. Only then should he instruct others).
Như đã nói ở trên, không phải danh ngôn nào cũng đều nhận
được sự tán đồng của người tiếp nhận. Trong một bài diễn văn tại Hội Y Học
(Medical Society) bác sĩ Oliver Wendell Holms (1809 - 1894) đã phát biểu: “I finally believe that if the whole Materia
Medica as now used, could be sunk to the bottom of the sea, it would be all the
better for mankind and all the worse the fishes”.
Trong số cử tọa ngồi nghe, chắc hẳn nhiều người bị sốc vì
những suy nghĩ của vị bác sĩ này: “Tôi
tin chắc rằng nếu toàn bộ Giáo trình Y khoa hiện đang sử dụng được nhận chìm
dưới đáy biển sẽ là điều tốt đẹp hơn cho nhân loại và cũng là điều tệ hại hơn
cho các loài cá”.
***
Danh ngôn giúp ích rất nhiều cho những người viết văn. Lời
của một danh nhân khi được trích dẫn luôn có tính thuyết phục đối với người
đọc. Những nhà văn lớn cũng biết cách lồng vào tác phẩm của mình tư tưởng và
ngôn từ của các danh nhân. Đó chính là nghệ thuật của người viết.
Tuy nhiên, có đều không hay, người viết rất dễ đánh lừa
người đọc khi họ tạo cảm giác mình là tác giả của những suy nghĩ như vậy. Xem
ra, việc sử dụng danh ngôn đòi hỏi sự “lương thiện” của người trích dẫn.
Cho đến bây giờ, mỗi khi bắt gặp một danh ngôn, châm ngôn
hay ngạn ngữ thâm thúy tôi đều ghi chép lại. Để làm gì? Câu trả lời thật đơn
giản: để làm giàu “túi khôn”, dù những lời hay ý đẹp đó có thực hiện được hay
không, chúng vẫn luôn là hành trang trong suốt cuộc đời.
***
Chú thích:
[1] Plutarch (46 –
120 AD), (tên đầy đủ Lucius Mestrius Plutarchus) là một nhân vật đa tài thời La
Mã cổ đại. Là một học giả lớn trong lịch sử, ông đã để lại một gia tài văn học
đồ sộ cho nhân loại. Ông rất thông thái, am hiểu sâu sắc về tôn giáo, thuật
hùng biện và cả triết học. Không những thế, có người còn xem ông là một nhà sử
học quân sự, ông đã giúp cho nhân loại có được am hiểu về nền quân sử Hy Lạp -
La Mã cổ.
Lucius Mestrius Plutarchus
[2] Marcus Porcius
Cato Uticensis (95 - 46 Trước Công Nguyên, thường được gọi là Cato Trẻ (Cato Nhỏ) để phân biệt ông với ông cố của ông là Cato Già) là một chính trị gia trong
những năm cuối của nền Cộng hòa La Mã. Không những thế, ông còn được xem là một
vị quan thanh liêm, không nhận của hối lộ, và nổi tiếng là người kịch liệt
chống đối sự tham nhũng trên khắp La Mã thời đó. Sau khi bị Julius Caesar đánh
bại trong trận Thapsus ,
ông đã nhận lấy cái chết anh dũng là tự sát.
Marcus Porcius Cato Uticensis
[3] Francois de La
Rochefoucauld (1613 –1680) là tác giả người Pháp nổi tiếng về lối viết
thuộc loại ký ức và châm ngôn. Ông viết tác phẩm Mémoires (Ký ức) được in tại Cologne
năm 1662. Mémoires nói lên xã hội đương
thời nhưng không hoàn toàn là của ông. Lần in của Renouard năm 1817 từ bản
chính gốc của La Rochefoucauld mới thật là tác phẩm nổi tiếng của ông, lần này
dưới tựa đề Réflexions ou sentences et
Maximes morales, hay là Maximes (Châm
ngôn). Năm 1665 La Rochefoucauld đã tự in lấy quyển Maximes gồm 150 trang với
lời tựa cho độc giả.
Quyển Maximes đầy
đủ nhất có 504 câu châm ngôn. Năm 1863, Barthélemy in dưới tựa đề Oeuvres Inédites de La Rochefoucauld
(Tác phẩm chưa từng xuất bản của La Rochefoucauld) gồm 259 câu châm ngôn, nhưng
phần lớn chỉ là những dị bản (variantes).
Aimé Martin cho tái bản năm 1822, tiếp đến Gilbert và
Gourdault (1868-1883, 4 cuốn) và Pauly năm 1883
.
Francois de La Rochefoucauld
[4] Napoléon Bonaparte (1769 – 1821) là một nhà quân sự và
chính trị kiệt xuất trong và sau cuộc cách mạng Pháp cũng như các cuộc chiến
tranh liên quan ở châu Âu. Ông giữ ngôi Hoàng đế từ năm 1804 đến năm 1815 với
đế hiệu là Napoléon I.
Cuộc cải cách pháp luật của ông, Bộ luật Napoléon, đã có những ảnh hưởng lớn lên nhiều bộ luật dân
sự trên toàn thế giới, nhưng ông được nhớ đến nhất bởi vai trò của mình trong
các cuộc chiến tranh mà Pháp phải đương đầu với hàng loạt liên minh, được gọi
là Các cuộc chiến tranh Napoléon.
Ông đã thiết lập quyền bá chủ trên phần lớn lục địa châu Âu
và tìm cách truyền bá những lý tưởng của cách mạng Pháp, đồng thời củng cố nền
đế chế làm phục hồi những nét của chế độ cũ. Nhờ thắng lợi trong những cuộc chiến
này, thường là chống lại đối phương có ưu thế về quân số, ông được coi là một
trong những nhà quân sự vĩ đại nhất mọi thời đại, và các chiến dịch của
Napoléon được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên khắp thế giới.
Napoléon Bonaparte
[5] Victor Hugo
(1802 – 1885) là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn
nổi tiếng của Pháp. Ông cũng đồng thời là một nhà chính trị, một trí thức dấn
thân tiêu biểu của thế kỷ XIX. Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong
lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng
trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Với tư cách là nhà thơ trữ tình, Hugo đã xuất bản tập Odes et Ballades (1826), Les feuilles d'automne (1931) hay Les Contemplations (1856). Nhưng ông
cũng thể hiện vai trò của một nhà thơ dấn thân chống Napoléon III bằng tập thơ Les Châtiments (1853) và vai trò một nhà
sử thi với tập La Légende des siècles
(1859 và 1877).
Thành công vang dội của hai tác phẩm Notre-Dame de Paris (1831) và Les
Misérables (1862) khiến Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công
chúng. Về kịch, ông đã trình bày thuyết kịch lãng mạn trong bài tựa của vở kịch
Cromwell (1827) và minh họa rõ nét
thể loại này ở hai vở kịch nổi tiếng Hernani
(1830) và Ruy Blas (1838).
Victor Hugo
[6] John Dewey
(1859 - 1952) là nhà triết học, tâm lý học và nhà cải cách giáo dục người Mỹ.
Dewey là một trong những người đầu tiên phát triển triết học về chủ nghĩa thực
dụng và là một trong những người sáng lập tâm lý học chức năng, các ý tưởng của
ông có ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục và cải cách xã hội. Ông là một đại diện
tiêu biểu của trào lưu giáo dục tiến bộ
(progressive education) và chủ nghĩa tự do. Ngoài nổi tiếng với các tác phẩm về
giáo dục, John Dewey còn viết sách về nhiều chủ đề khác nhau, như kinh nghiệm,
tự nhiên, nghệ thuật, logic, dân chủ và luân lý học.
Dewey cho rằng dân chủ không thể đạt được chỉ bằng việc mở
rộng quyền bầu cử, mà còn phải thông qua việc đảm bảo rằng ý kiến dư luận được
hình thành một cách đầy đủ, điều này chỉ đạt được thông qua việc giao tiếp hiệu
quả giữa người dân, chuyên gia và những nhà chính trị, trong đó các nhà chính
trị phải chịu trách nhiệm cho những chính sách mà họ đưa ra.
John Dewey
[7] Kahlil Gibran (1883-1931) là nhà thơ người Mỹ gốc Li
Băng. Ông nổi tiếng với tác phẩm The
Prophet (dịch giả Nguyễn Ước chuyển ngữ thành Ngôn sứ). Gibran quan niệm “Giữa
trần gian, con người chẳng thể sống một mình; từ bản thân mỗi người và trong
hiệp quần với tha nhân phát sinh các vấn đề, và chỉ có thể giải quyết đích thực
chúng bằng cách sống nhân ái với trọn vẹn thể xác cùng tâm hồn chân chính của
mình”.
Ông xác nhận: “Trong
Ngôn Sứ, tôi chốt lai các ý tưởng nhất định và tôi ao ước sống theo các lý
tưởng đó… Đối với tôi, nếu chỉ viết suông chúng ra thôi thì đó là giả trá”.
Từ ngày ra mắt (1923), tác phẩm xuất sắc này được đón nhận nồng nhiệt, đến nay đã dịch ra hơn 40 thứ tiếng, tái bản gần 200 lần, với hơn 100 triệu bản.
Chân dung Khalil Gibran và tác phẩm ‘The Prophet’
[8] Miguel de
Cervantes y Saavedra (1547 – 1616) là tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà soạn
kịch Tây Ban Nha. Ông được biết đến nhiều nhất với cuốn tiểu thuyết hai tập Don Quixote de la Mancha (Don Quixote -
Nhà hiệp sĩ quý tộc tài ba xứ Mancha, người Việt quen gọi là Đông Ki Sốt). Don Quixote được coi như tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của châu Âu,
một trong những tác phẩm vĩ đại nhất trong văn học phương Tây, và là tác phẩm
lớn nhất bằng tiếng Tây Ban Nha.
Miguel de Cervantes y Saavedra
[9] William
Shakespeare (1564 – 1616) là một nhà văn và nhà viết kịch người Anh, được
coi là nhà văn vĩ đại nhất và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Những tác
phẩm của ông bao gồm 38 vở kịch, 154 bản sonnet, 2 bản thơ tường thuật dài, và
vài bài thơ ngắn. Những vở kịch của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn
ngữ lớn và được trình diễn nhiều hơn bất kì nhà viết kịch nào.
Nổi tiếng nhất về bi kịch có Hamlet, King Lear, Romeo and Juliet, Macbeth... Hài kịch: The Merchant of Venice ,
Much Ado About
Nothing, Love's Labour's Lost, Love's Labour's Won…
William Shakespeare
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến
ngày xuống lỗ)!
Cám ơn anh N. Ngọc Chính. Bài viết thật thú vị và bổ ích.
Trả lờiXóaHíc, NG tui cất công sưu tầm nhiều lắm, cả sách, cả chép tay hơn chục quyển trăm trang. Ngoài ra còn đĩa nhựa, băng Akai và cassette cùng rất nhiều ấn bản sách, nhạc. Sau bảy lăm, bị đày đi làm thủy lợi tập trung, ở nhà chính quyền địa phương đến bắt giao trọn, đốt sạch!
Trả lờiXóaGiờ thấy anh khoe ở đây, đứt từng khúc ruột. Mua lại hay sưu tầm thì lại sẽ có dù không được như xưa, nhưng buồn nhất là công sức hồi đó sưu tầm và ráng mà viết cho đẹp, trang trí cho xinh!
Huhuhuhu
Chia buồn cùng anh bạn già!!!
XóaChỉ một trang chia sẻ nhưng cả một đoạn đường dài âm thầm vật vã của những tháng ngày ấy.
Trả lờiXóaRất muốn sở hữu được một quyển đầy công sức ấy nhưng biết tìm đâu ra.
Cảm ơn anh Chính! Tôi học được nhiều bài học mới từ post này của anh!
Trả lờiXóaChúc anh luôn khỏe, vui vẻ và bình an!