(Tiếp theo)
--> Read more..
Đây là bài cuối cùng trong loạt bài Đọc ‘Bên Thắng Cuộc’. Bài viết này chỉ xoay quanh những câu chuyện
nhỏ trong cuốn sách. Tuy là chuyện bên lề nhưng tôi cho rằng rất thú vị vì mang
nhiều ý nghĩa trong giai đoạn lich sử của đất nước, từ năm 1975 cho đến nay.
Ngay sau ngày 30/4/1975, chính quyền mới muốn thay đổi đến
tận gốc rễ cuộc sống của người dân miền Nam . Họ đã liên tiếp tung ra nhiều
chiến dịch thuộc quy mô lớn như cải tạo viên chức – quân nhân chế độ cũ, cải
tạo công thương nghiệp, chính sách kinh tế mới… cho đến những chuyện nhỏ như đợt
phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng, không để râu tóc”.
Theo Bên Thắng Cuộc,
tháng 10/1975, ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo
luận về “tư cách, tác phong của người
thanh niên” và Quận Đoàn đã đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực,
không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt tóc và
nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba
địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”.
Ngay tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết
dùng những biểu tượng của chế độ mới như Karl Marx, Angel, Lenin và Mao Trạch
Đông qua thơ để ta thán về sự “bất bình thường” của những người được mệnh danh
là “giải phóng”. Trích từ Bên Thắng Cuộc:
Các-mác
mà đến Việt Nam
Râu
dài tóc rậm công an bắt liền
Các-mác
cầu cứu Ăng-ghen
Ăng-ghen
cũng phải đóng tiền tóc râu
Truyền
cho bốn biển năm châu
(Đến
Việt Nam
thì nhớ)
Râu
Mao Chủ tịch tóc đầu Lê- nin!
Cái hay trong thơ dân gian là dùng hình tượng Mao Trạch Đông
vốn “mày râu nhẵn nhụi” để làm chuẩn cho những ai thích để râu còn Lenin “đầu hói”
được lấy làm mẫu mực cho việc hớt tóc! Xem ra, khổ thì có khổ nhưng những nhà
thơ đường phố vẫn còn chút khôi hài để cười cho quên cái khổ.
Về quần ống loe, tôi xin trích dẫn chú thích số [348] khá
dài của Huy Đức: “Từ Đông Đức trở về,
quần áo mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe vì nó đang là “mốt của
toàn thế giới”. Một hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội thì bị công an
ách lại và ngang nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến ngang hông.
Tức tối, ông Nghĩa về
cơ quan là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng,
cả lãnh đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ
nhiệm Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận xét: “Cái quần nó loe thì đầu óc nó cũng
loe.
“Tuy, ít nơi chính
thức ban hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu như các mệnh lệnh thường
có giới hạn thì các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất là khi các đoàn
viên “hồng vệ binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc càn quấy” ấy.
Nhiều nơi, những người
mặc quần loe, để tóc dài đã bị các đoàn viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng
dao, kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường (Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam ). Ông Phan
Minh Tánh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội ông
thấy, ở cơ quan Trung ương Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần
loe để tóc dài”.
Sưu tầm trên internet, chúng tôi gặp bức ảnh một người thanh
niên tên Nguyễn Minh Tâm bị đeo tấm bảng trước ngực có dòng chữ “Mê Nhảy Đầm”
giữa thành phố Sài Gòn vừa đối chủ. Ngày ghi trên bảng không rõ nhưng phía sau
lưng anh là 4 chú bộ đội, không biết là vô tình xuất hiện hay chính họ là người
đạo diễn cảnh bêu riếu này.
Câu chuyện bên lề dưới đây được Bên Thắng Cuộc viết lại qua lời kể của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc
dạy tại trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Trong năm học 1976-1977 một học sinh
lớp 10, lớp do cô phụ trách, đã viết 4 câu thơ lên bàn học của mình:
Không
muốn ngồi yên để đợi trông
Thích
làm Từ Hải giữa muôn lòng.
Cộng
lại những gì trong quá khứ,
Sản
khoái trong lòng thoả ước mong
Theo cô giáo, điều quan trọng không phải là học sinh này đã
viết sai lỗi chính tả trong câu cuối cùng, thay vì “sảng khoái” em viết “sản
khoái”. Đó là một lỗi “cố ý” vì đoạn thơ có 4 chữ bắt đầu bằng “Không”,
“Thích”, “Cộng” và “Sản”, ghép lại thành cụm từ “Không Thích Cộng Sản”.
Bên Thắng Cuộc
bình luận: “Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy
năm tích tụ, nhưng hành động viết ra thì chỉ là một phút bốc đồng. Có người đã
báo cáo và học sinh đó đã bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học”.
Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể thêm: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada ) đã cố
hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô
giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có
người đã nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn
là bằng cớ”.
Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu
thơ viết trên bàn học, sự trải nghiệm “Sài Gòn giải phóng” đã giúp nhà thơ Đỗ
Trung Quân [1] thai nghén những vần thơ cũng đau như dao cắt, nhưng nó không
được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải nhận cây còng số 8.
Năm 1982, Đỗ Trung Quân (tác giả Quê hương là chùm khế ngọt…” viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn nhưng mãi tới năm 2009 tác giả mới công bố bài
thơ này trên blog cá nhân. Bên Thắng Cuộc
đã trích lại bài thơ để minh chứng một góc nhìn của người dân Sài Gòn với những
người đã “giải phóng” mình:
Một
ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các
anh từ Bắc vào Nam
Cuộc
trường chinh 30 năm dằng dặc
Các
anh đến
Và
nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của
xì ke, gái điếm, cao bồi
Của
tình dục, ăn chơi
“Hiện
sinh-buồn nôn-phi lý!!!”
Các
anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con
gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các
anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn
hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi
bút các anh thay súng
Bắn
điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào
những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các
anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các
anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang”, nổi loạn
Là
thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các
anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang
tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
Trong những năm đầu “giải phóng”, những văn nghệ sỹ miền Bắc
khi đến Sài Gòn vẫn thích đeo bên hông khẩu K54. Những năm về sau, họ đã biết
uống bia, biết áo phông (pullover), quần bò (quần Jeans). Theo Đỗ Trung Quân,
bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự
dồn nén sau bảy năm “giải phóng”, còn lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà
văn miền Bắc, đến trước mặt anh, chỉ đôi dép sa-bô, cái quần bò đang mặc và
hỏi: “Ê Quân, thấy bọn này Sài Gòn
chưa?”.
Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ
lở là chữ của Đỗ Trung Quân mà Huy Đức đặt tên một trong tiểu đề trong Bên Thắng Cuộc. Khi ấy, năm 1982, Đỗ
Trung Quân viết:
Bảy
năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một
góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những
con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người
giã
từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những
gã du đãng giang hồ
cũng
khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm
lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc
đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
Và
khi ấy
Thì
chính “các anh”
Những
người nhân danh Hà Nội
Các
anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi
đã đời
Chửi
hả hê
Chửi
vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các
anh những người nhân danh Hà Nội
sợ
đến tái xanh
Khi
có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội
nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những
bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những
bà mẹ làm ra hạt lúa
Những
năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những
bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để
những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây
giờ
Những
đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang
nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các
anh đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã
bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng
phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các
anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
Rượu
bia và gái
Các
anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”
Các
anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các
anh cũng chạy đứt hơi
Rượt
bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài
Gòn 1982 lẽ nào…
Lại
bắt đầu ghẻ lở?
…
Tội
nghiệp em
Tội
nghiệp anh
Tội
nghiệp chúng ta những người thành phố
Những
ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những
ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để
tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
Xin
ngả nón chào các ngài
“Quan
toà trong sạch”
Xin
các ngài cứ bình thản ăn chơi
Hãy
để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn
nhiên xanh muôn thuở
để
yên cho xương rồng, gai góc
Chân
thật nở hoa
Này
đây!
Xin
đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi
một góc (chỉ một góc thôi) Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây
giờ…
Tin
chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”
Khi
sống hả hê giữa một thiên đường
Ai
bây giờ
Sẽ
Tạ
lỗi
Với
Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân, “thanh niên chậm tiến”, và một bài thơ mới
Xin trích lại nguyên văn đoạn dưới đây trong Bên Thắng Cuộc, chuyện bên lề về ông Lê
Duẩn. Phần bình luận dành cho người đọc, dĩ nhiên tùy thuộc vào chính kiến và
quan điểm của mỗi người:
“Tháng Giêng năm 1976,
theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân và ông Trần Phương, theo đường
bộ, đi xe vào thẳng Sài Gòn. Ông Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm
việc được, người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài Gòn đã là cuối tháng
Chạp, ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về thì về trước”.
Ông Đậu Ngọc Xuân đã ở lại.
Sáng mùng Một Tết Bính
Thìn, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã
“bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông
nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói
là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân
thì trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt
máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì. Bà Bảy
Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít.
Chúng em không bao giờ nói thế”.
Ông Lê Duẩn tiếp: “Các
chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong
này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội
chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái
quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó,
“các chị Nam
Bộ khóc như mưa”.
Về quê
Bạn có biết “deux
cents bougies” là gì? và ai được gắn “danh hiệu” đó? Hãy đọc đoạn văn dưới
đây trong Bên Thắng Cuộc:
“Theo ông Võ Văn Kiệt,
ngay cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần,
Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quý mến ông Duẩn và gọi
ông là “ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm việc của ông như một “ngọn
đèn 200 nến”. (?)
Chân dung ông Lê Duẩn trong những ngày lãnh đạo kháng chiến
ở miền Nam được bà Nguyễn Thụy Nga [2] còn có tên Nguyễn Thị Vân, bí danh Bảy
Vân, người vợ thứ hai của ông, mô tả như sau:
“Anh mặc quần rách
đít, áo rách cùi chõ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy ký nhưng vì cao nên
trông anh khô quắt, khô queo, áo quần thì nhuốn màu phèn Đồng Tháp Mười. Sinh
hoạt của anh làm tôi xúc động.
Những người như ông
Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành
chánh Nam bộ, người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy ở
nhà lá nhưng cũng rất đàng hoàng. Còn anh, chỉ có một chiếc thuyền tam bản, đến
cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo vệ leo lên nhà ngủ, còn anh
ngủ dưới ghe. Anh nhường nhịn điều kiện tốt cho mọi người”
Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân)
Loạt bài viết về Bên
Thắng Cuộc xin “tạm ngưng” ở đây
với những chuyện vui buồn bên lề góp nhặt từ Cuốn I “Giải Phóng”. Sở dĩ tôi viết “tạm ngưng” vì chắc chắn còn có
nhiều điều để bàn khi Cuốn 2 “Quyền Bính”
ra mắt bạn đọc.
Chúng ta lại còn tiếp tục nói đến “Hậu-Bên-Thắng-Cuộc” vào năm 2013 khi Huy Đức hoàn tất học bổng Nieman
Fellowship tại Havard (Boston). Liệu Huy Đức có trở về Việt Nam ?
***
Chú thích:
[1] Đỗ Trung Quân sinh
năm1955 tại Sài Gòn, là một nhà thơ với một số bài được phổ nhạc và được nhiều
người yêu thích như Quê hương, Phượng
hồng tại Việt Nam ...
Anh còn được biết đến với nhiều nghề "tay trái" khác như MC cho những
chương trình ca nhạc của bạn bè hay làm diễn viên cho một số phim truyền hình.
Theo bài phỏng vấn trên báo Vietnam News giữa năm 2005 thì trong khai sinh của anh không có tên
cha. Đỗ Trung Quân được mẹ là bà Đỗ Thị Hảo nuôi lớn đến năm 15 tuổi thì mẹ
mất. Anh tiếp tục mưu sinh và sau khi tốt nghiệp Tú tài, vào học tại Đại học
Vạn Hạnh.
Năm 1979, Đỗ Trung Quân tham gia phong trào Thanh niên Xung
phong và bắt đầu sáng tác. Một số bài thơ phổ nhạc được nhiều người biết đến
như:
- Hương tràm (1978), Vũ Hoàng phổ nhạc
- Bài học đầu cho con (1986), Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài Quê hương
- Chút tình đầu (1984), Vũ Hoàng phổ nhạc thành bài Phượng hồng (1988)
- Khúc mưa, Phú Quang phổ nhạc
Trang blog “Chung Do Kwan”, nhại theo tên Hàn Quốc của Trung
Đỗ Quân, khá nổi tiếng trong giới blogger tại Việt Nam (http://dotrungquan.com/). Anh giải thích về
cái tên “củ sâm” của mình:
“Cái tên ấy thật sự
chỉ là cách đọc trại tên thật của tôi: Đỗ Trung Quân mà thôi. Nó mang ý
nghĩa vừa hài hước vừa tự châm biếm mình
trong giai đoạn mà ảnh hưởng văn hóa của xứ “Củ sâm” hầu như chiếm lĩnh xã hội
ta từ giải trí, tiêu dùng đến cả hôn
nhân gia đình. Sự chiếm lĩnh có lẽ chỉ đứng sau ảnh hưởng của phim ảnh văn hóa
Trung Quốc. Tất nhiên, chủ nhân blog cũng không phủ nhận những ảnh hưởng cần
thiết, tốt đẹp giao thoa của mọi nền văn hóa có tính toàn cầu”.
Đỗ Trung Quân trong thời gian gần đây thường xuất hiện tại
các cuộc biểu tình của người Sài Gòn chống Trung Quốc xâm lược.
Tranh của Đỗ Trung Quân
[2] Nguyễn Thụy Nga:
Huy Đức viết về cuộc tình của bà Nga và ông Lê Duẩn, vốn được các đồng chí của
ông gán cho danh hiệu “ông 200 bougies” nhưng
cũng có thể là “ông 400 bougies” khi có một người như bà Nga “kề cận chăm sóc”:
“Bà Nguyễn Thị Nga
sinh năm 1925, con của một tri huyện cáo quan về viết báo và mở lò gạch tại
Biên Hòa. Theo bà Nga thì cha bà đã từng là chủ bút tờ báo tiếng Pháp ‘La
Tribune Indigène’. Năm mười hai tuổi, cô tiểu thư Nguyễn Thụy Nga đã từng phải
khai tăng tuổi để thi. Năm mười bốn tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động
và cũng từ đây, cô “trót yêu một đồng chí đã có gia đình”.
Người tình “đồng chí”
của bà Nga chính là “hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người
cộng sản lãnh đạo “cướp chính quyền” ở Sài Gòn năm 1945. Đây là cuộc tình mà
“cả hai người vừa duy trì, vừa kìm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối
quan hệ của hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga bị buộc
phải chuyển về Sài Gòn công tác.
Đúng lúc ấy, ông Lê
Duẩn từ Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp Tỉnh ủy, ông cũng được nghe
câu chuyện tình của bà Nga, bấy giờ đang là nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà
Nguyễn Thị Nga được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức
cho Bí thư Xứ ủy.
Khi được ông Lê Duẩn
hỏi thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên Sài Gòn, đối với tôi
là một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không
băn khoăn gì. Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu thì khó làm được. Xa nhau
cũng được nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc.
Theo bà Nga thì khi ấy
ông Duẩn không phát biểu gì nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ, ông nói:
“Nếu có cưới vợ thì tôi thích người có tình, chung thủy như chị Nga”.
Ít lâu sau, Lê Đức Thọ
xuống Cần Thơ công tác, gặp bà Nga: “Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng
anh ấy đi. Anh xa nhà hai mươi năm không có tin tức gì, gia đình anh còn ở vùng
địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó
cũng là một nhiệm vụ. Hiện nay trong lãnh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng
suốt, anh em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm sóc thì
anh ấy sẽ trở thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có lợi cho cách
mạng”
Bà Nguyễn Thụy Nga cùng con gái Vũ Anh, con trai Lê Kiên Thành, Lê Kiên
Trung
chụp trước khi chia tay các con vào Nam năm 1964.
(Ảnh tư liệu gia đình)
Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ
lại: “Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, vì trong lòng tôi lúc nào anh cũng
là một lãnh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê
Duẩn nói thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ mãi. Một lần tôi
lấy hết can đảm hỏi anh: ‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đình, phải
giải quyết sao đây?’.
Anh nói: ‘Anh cưới vợ
trước kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà
Nội ở một thời gian nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về
nhà, anh nói với chị ấy nên tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp
được gì cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền
Trung còn phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha
mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì người phụ nữ miền Trung cũng
dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa
con, lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình đi hoạt động cách mạng, có điều kiện
gần gũi nhau, chắc không có gì khó khăn”
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến
ngày xuống lỗ)!