Tại
miền Nam, vào tháng 6/1975 Chính phủ Lâm thời Cộng hòa niền Nam Việt Nam ra
thông cáo bắt buộc sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng hòa phải đi “học tập cải
tạo”. Thông báo của Ủy ban Quân quản nêu rõ:
"Việc tổ chức
cho ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động ra trình diện học tập cải
tạo thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước, có tác dụng phân hóa
hàng ngũ bọn phản động, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, đập tan luận điệu tuyên
truyền chiến tranh tâm lý của địch, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của
nhân dân."
Cụ
thể hơn, chính quyền đưa ra bốn thành phần cần phải tập trung cải tạo: (1) Ngụy
quân: sĩ quan từ cấp úy đến cấp tướng; (2) Ngụy quyền: cảnh sát, tư pháp, hành
chính; (3) Đảng phái phản động: đảng viên hoạt động từ cấp quận trở lên; và (4)
Đầu hàng, phản bội: các phần tử bị Ngụy quyền chiêu hồi.
Bên
cạnh đó là những thành phần không thuộc bốn diện trên nhưng có hoạt động chống
phá như nhà văn, nhà báo (còn được gọi là “những tên biệt kích cầm bút")...
cùng các tội phạm hình sự như trộm cướp, ma túy cũng được xếp vào diện phải đi
học tập cải tạo.
Thực
tế thì việc học tập cải tạo bắt đầu từ tháng 5/1975 đối với hạ sĩ quan và binh
sĩ VNCH. Họ phải qua một khóa chính trị 3 hay 4 ngày rồi được chính quyền địa
phương cấp giấy chứng nhận để cho về. Thế cho nên, đa số các sĩ quan cũng chỉ “mong”
tới phiên mình “được” học tập và sớm trở về với gia đình và xã hội.
Giấy chứng nhận đã học tập cải tạo cấp cho hạ sĩ quan và
binh sĩ VNCH
Thời
gian trình diện được quy định từ ngày 13 đến 16/6/1975. Người ta chú ý đến chi
tiết phải mang theo lương khô đủ dùng trong 10 ngày để tự túc về lương thực. Hạ
sĩ quan và binh sĩ đã học 3 ngày nên sĩ quan cấp úy sẽ học 10 ngày là điều… vô
cùng hợp lý. Đối với nhiều người, đó là một chính sách nhân đạo.
Một
trong những trường hợp lạc quan là Bác sĩ Nguyễn Phước Đại, khi đó làm Giám đốc
Bệnh viện Sài Gòn (xế bên Chợ Bến Thành). Ông vốn là dân Tây mới về nước nên thắc
mắc với các nhân viên trong bệnh viện: “Lươn
khô tôi không biết ăn, vậy chứ nếu mang thứ khác thay thế được không?”. Ông
bác sĩ giỏi tiếng Pháp nhưng lại không rành tiếng Việt nên cứ tưởng “lương khô”
là… con lươn được sấy khô!
Thủ
tục đầu tiên để được cải tạo là… đăng ký để đi học. Địa điểm tôi đăng ký là trường
Taberd nằm ở góc đường Hai Bà Trưng – Lê Thánh Tôn, sau này đổi tên là trường
Trung học Sư phạm. Trong ba lô hay túi xách của mỗi người đi trình diện có các
loại lương khô như mì gói, gạo sấy, thịt chà bông… kèm theo các vật dụng cá
nhân như một bộ quần áo để thay đổi, bàn chải-kem đánh răng và vài viên thuốc cảm
phòng khi trái nắng trở trời.
Nói
chung, bầu không khí đăng ký tại đây có phần “hồ hởi” vì ai cũng nghĩ đến ngày
học xong để trở về với gia đình và xã hội. Việc đăng ký cũng đơn giản: chỉ cần
khai họ tên, số quân, cấp bậc, chức vụ, đơn vị phục vụ… Tuy nhiên, đăng ký xong
là tập trung học tập ngay chứ không phải… đăng ký, giữ chỗ rồi về nhà chờ.
Trình diện học tập cải tạo
Ngay
tối hôm đó chúng tôi được một đoàn xe Molotova bít bùng chở đến địa điểm học tập.
Trên xe ngoài tài xế còn có 2 anh bộ đội với súng AK ngồi ngoài cùng. Các anh
còn rất trẻ, khi thấy trong xe tôi có cả nữ quân nhân nên nói với nhau: “Lại còn đem cả vợ đi học nữa”!
Đường
ban đêm nên chẳng biết xe đi đâu. Mọi người chỉ đoán xe chạy rất lâu, khoảng
100 km, thì dừng. Có người tỏ ra quen thuộc với địa điểm này, anh nói hình như
đây là căn cứ Trảng Lớn của Sư đoàn 25 bộ binh ở Tây Ninh. Anh bạn cùng xe với
tôi đã nói đúng vì trước đây anh phục vụ tại sư đoàn này.
Tuy
vậy, anh chỉ đúng có một phần. Hồi xưa đơn vị anh là chủ căn cứ nhưng giờ đây
nơi này thuộc quyền kiểm soát của “bên thắng cuộc”. Chúng tôi chỉ là “những người
khách không mời” của trại cải tạo Trảng Lớn, Tây Ninh. Sự nghiệt ngã của chiến
tranh là vậy.
Nằm
ở phía Tây Nam Sài Gòn, Trảng Lớn là một căn cứ quân sự quan trọng chỉ cách
biên giới Cambodge chừng 40 km. Ngọn núi Bà Đen cũng là một điểm chiến lược trọng
yếu, từ đây có thể khống chế toàn khu vực nên có đặt một đài radar. Đối với người
cải tạo, núi Bà Đen (trước đây còn được gọi là “Đỉnh Buồn Hiu” vì mang tên Núi
Một) tượng trưng cho Sài Gòn để họ hướng về nơi gia đình và người thân đang sống.
Núi Bà Đen, Tây Ninh
“Trảng”
là một từ ngữ phổ biến tại vùng Tây Nam bộ, hàm ý một vùng cỏ hoang, bằng phẳng
giáp với rừng hay giữ hai cánh rừng. Đó có thể cũng là lý do Sư đoàn 25 thiết lập
một căn cứ quân sự khá lớn với nhiều doanh trại làm theo kiểu nhà tiền chế và rất
nhiều kho quân nhu, quân dụng.
Giờ
thì mỗi căn nhà có thể chứa khoảng 50 người cải tạo, một sự sắp xếp trớ trêu của
định mệnh sau ngày miền Nam thất thủ. Phải nói là chúng tôi vẫn còn may mắn khi
Trảng Lớn đặt dưới quyền kiểm soát của bộ đội chứ không là công an. Vì sao ư?
Đơn giản chỉ vì bộ đội không quá khắc nghiệt như công an, vốn nổi tiếng với
cách điều hành một trại giam.
Mọi
người sống trong tâm lý… “sinh hoạt cầm chừng” chờ ngày được về. Thời gian hơn
10 ngày đã qua đi mà trại chỉ mới tổ chức một hai buổi “lên lớp chính trị” với
các bài giảng như “đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân”, “thật thà khai báo việc
làm trong thời gian qua để sớm được trở về với gia đình”…
Sau
mỗi buổi học tập chính trị, mỗi cá nhân phải viết “bản tự kiểm” nộp cho “quản
giáo”, tức bộ đội phụ trách từng đội. Cũng có những buổi sinh hoạt tổ được giám
sát bởi quản giáo để mọi người đứng ra thú nhận “tội máu với nhân dân” dù đó là
anh bác sĩ quân y, anh công binh xây dựng cầu cống hoặc anh giảng viên quèn như
bản thân tôi. Tất cả, dù dưới hình thức này hay hình thức khác, đều là… “kẻ thù
của nhân dân”!
Ngay
buổi học tập chính trị đầu tiên chúng tôi đã bị một cú sốc lớn về văn hóa của
“chính uỷ” tiểu đoàn. Đó là một loại “cultural shock” mà tôi không thể nào
quên. Trước một tập hợp những người cải tạo từ các đội trong một hội trường lớn,
ông quản giáo phụ trách chính trị đã “lên lớp” các sĩ quan cải tạo. Đại khái
như sau:
“Đế quốc Mỹ chính là
con đỉa hút máu… chúng hút máu nhân dân Mỹ bằng những tay trùm tư bản lên nắm quyền
Tổng thống, cai trị nhân dân lao động. Ford là Tổng thống nhưng trước đó hắn là
chủ nhân công ty sản xuất xe ô-tô… thì là sao mà có chuyện thương người lao động
chân tay, khổ cực, lầm than…”
Vấn
đề là vị quản giáo trên bục giảng đã quá coi thường những sĩ quan cải tạo. Ít
nhất họ cũng là những người có trình độ từ tú tài trở lên nên thừa hiểu biết
Henry Ford, người sáng lập Công ty Ford Motor, đã qua đời từ năm 1947… còn
đương kim Tổng thống Gerald Ford là kẻ hậu sinh, được bầu là Tổng thống thứ 38 của
Hoa Kỳ, năm 1974.
Một
chuyện thuộc lại “tiếu lâm” khác cũng xảy ra tại một trại học tập cải tạo ở miền
Nam. Khi thuyết trình về tình hình chính trị quốc tế tại Trung Đông, có một quản
giáo đã nói đến hai nước “Một La Mã Răng” và “Một La Mã Rắc” trước sự ngạc
nhiên của người cải tạo. Mãi sau này mới hiểu đó là các nước Iran và Iraq.
Phải
thành thật nhìn nhận, trình độ hiểu biết về chính trị của các cán bộ quản giáo
rất yếu kém. Tuy nhiên, khi giảng về đạo đức các vị vẫn thuộc nằm lòng câu nói
của người xưa, “Đánh kẻ chạy đi, không
đánh người chạy lại”. Có điều những người “chạy lại” bị tập trung rất lâu
trong trại.
Ngày tàn cuộc chiến
Những
ngày đầu chúng tôi đều tin tưởng rằng mình sẽ được trở về sớm nhưng có người
phân tích: thông cáo bảo mang theo lương khô đủ dùng trong thời gian 10 ngày…
chứ đâu có nói “học tập 10 ngày”!
Anh
em lại hy vọng chắc đến 2/9/1975 là ngày Quốc khánh sẽ được về nhưng tất cả đều
thất vọng vì có lệnh của tiểu đoàn phải cuốc đất trồng rau, tăng gia sản xuất để
“cải thiện” bữa ăn. Như vậy là đồng nghĩa với việc “yên tâm cải tạo” và chờ…
khi nào cải tạo tốt thì được trại cho về!
Một
ngày trong trại cải tạo được bắt đầu với tiếng kẻng đánh thức vào lúc 5 giờ
sáng. Người cải tạo cũng như cán bộ “khung” trên tiểu đoàn đều thức dậy để chào
ngày mới bằng những động tác thể dục mà chúng tôi gọi vui là theo kiểu… “chim
bay, cò bay”.
Trước
khi chấm dứt bài thể dục, cán bộ trên tiểu đoàn hô khẩu hiệu “Rèn luyện thân thể.
Bảo vệ tổ quốc”. Còn chúng tôi, những người cải tạo chưa được chính thức có quyền
công dân nên khẩu hiệu hơi khác đi: thay vì “Bảo vệ tổ quốc” mọi người phải sửa
thành… “Học tập tốt”!
Sau
màn thể dục là thời gian làm vệ sinh cá nhân. Nước thì đã có giếng, được kéo
lên bằng những sợi dây bện bằng sợi nylon của bao cát. Chúng tôi may mắn vì trong
căn cứ của Sư đoàn 25 có cả một kho bao cát chưa sử dụng, anh em tha về, tháo
những sợi nylon rồi bện thành dây để kéo nước từ giếng lên. Có người khéo tay
còn “sáng chế” ra áo khoác hay mũ đội đầu bằng bao cát. Cái khó không bao giờ
bó cái khôn!
Tùy
theo lịch làm việc đã được quản giáo thông báo với “đội trưởng” (cũng là người
cải tạo), công việc trong ngày được phân công đại khái như sau: toán “lao động
vườn rau” làm công việc “thu gom” phân và nước tiểu để chăm bón cây. Đây là một
công tác không đòi hỏi sức khỏe nhưng lại rất… “nặng mùi”!
Toán
“lao động chính” chờ vệ binh xuống để dẫn đường đến các điểm được chỉ định. Có
thể đến Phi đạo L19 để dọn dẹp. Căn cứ Trảng Lớn ngày xưa có một phi trường nhỏ
dành cho phi cơ L19, mặt phi đạo được lót bằng những tấm vỉ sắt dài, có những lỗ
hình tròn. Cứ 6 người tha một vỉ sắt dài để mang về đội.
Những
nhà thiết kế vỉ sắt không ngờ ngoài việc làm tấm lót phi đạo thay cho nhựa đường
và xi măng lại còn có những công dụng mà họ chẳng bao giờ nghĩ tới. Đối với người
cải tạo, vỉ sắt được dùng trong rất nhiều việc: làm “tường” vây các hố tiêu, tiểu…
làm sàn nước quanh giếng để tắm rửa, giặt giũ.
Cũng
tại phi trường bỏ hoang, chúng tôi săn nhặt những mảnh nhôm còn sót lại để đem
về trại và “chế tác” thành những vật kỷ niệm cải tạo mà có lẽ chỉ Trảng Lớn mới
có. Đó là những chiếc lược nhôm “Made in
Trảng Lớn” mà người cải tạo sau này đem về tặng những người thân, người
tình hoặc giữ lại cho chính mình.
Trong
đội của tôi có một anh nguyên là kỹ sư công binh, có nghĩa là anh khéo tay chế
biến các vật kỷ niệm trong điều kiện vô cùng thiếu thốn các dụng cụ để chế tác.
Trước hết là công đoạn cắt mảnh nhôm thành hình những đồ vật mà mình tưởng tượng
trong trí: chẳng hạn như một cái lược.
Kỷ vật trại cải tạo
Nhôm
là kim loại rất dễ uốn nắm chứ không cứng như sắt hoặc thép. Chỉ cần một cây sắt
mài nhọn ta có thể khắc những hoa văn, hình ảnh hay chữ viết trên tấm nhôm kỷ
niệm. Người cải tạo chúng tôi gọi công việc này là “xủi”, có nghĩa là khắc họa
trên tác phẩm.
Chỉ
cần một người chuyên môn như “ông thầy công binh” biết cách chế tác là cả đội
có thể học lóm và những ngày nghỉ cuối tuần đội cải tạo biến thành một “xưởng
thợ”, sản xuất những mặt hàng kỷ niệm để mai này về tặng lại cho người thân. Vật
kỷ niệm trở thành vô giá. Ông bà ta thường nói “Của một đồng, công một nén” nhưng có lẽ trong trường hợp này giá
trị tinh thần còn cao hơn thế nữa.
Công
tác lao động “nặng” nhất là việc dọn dẹp phía trong hàng rào chung quanh căn cứ
đã bị bỏ hoang một thời gian. Trong chiến tranh, hàng rào phòng thủ thường gài
mìn để ngăn ngừa xâm nhập. Thế là đã có những vụ nổ mìn do bất cẩn và kết quả
là… từ bị thương cho đến chết.
Kinh
khủng nhất là loại “lân tinh”, chiếu sáng nhờ chất phốt-pho. Một khi phát nổ,
hóa chất có thể dính vào thân thể và cứ thế ăn mòn da thịt. Âu cũng là số mạng.
Chiến tranh 20 năm qua không chết mà lại chết trong thời bình!
Súng
đạn lúc nào cũng vô tình nên một quả M79 sau khi được bắn ra chưa đủ vòng quay
nên chưa nổ… chỉ cần vô tình đụng nhẹ cũng đủ kích động. M79 vốn được thiết kế
để phá hủy sắt thép thì làm sao con người bằng xương, bằng thịt có thể sống
sót!
Quả
đạn M79 là một thứ vũ khí mang lại sự chết chóc… nhưng cũng chính ống phóng của
quả đạn này dưới bàn tay “đa năng, đa hiệu” của người cải tạo cũng có thể trở
thành một kỷ vật đầy ý nghĩa để đánh dấu chuỗi ngày học tập, mất hẳn quyền tự
do tối thiểu.
Ngày
ra trại, trong hành trang của tôi lúc trở về với cuộc sống bình thường có hai vật
kỷ niệm: một chiếc lược nhôm và một chiếc vòng có “xủi” 6 cái tên trong gia
đình làm từ ống phóng M79. Những kỷ vật vô giá này đã truyền lại cho đời cháu để
nhớ lại những gian khổ mà bản thân tôi đã phải vượt qua.
Chiếc vòng bằng ống phóng M79 có khắc tên kỷ niệm 6 người
thân
Tôi
thuộc loại người luôn “lạc quan” trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Triết lý
sống của tôi thật đơn giản như chuyện “Tái
ông thất mã” trong Cổ học Tinh hoa. Ông già họ Tái không buồn khi mất đi
con ngựa, đến khi con ngựa trở về mang theo một ngựa con ông cũng chẳng vui khi
hàng xóm đến chúc mừng. Con trai cưỡi ngựa bị té gãy chân, hàng xóm đến chia buồn
nhưng ông bảo ông vẫn dửng dưng không coi đó là xui xẻo. Quả nhiên, vì bị gãy
chân nên con trai ông không phải tòng quân!
Vui
– Buồn, Vinh – Nhục, Họa – Phước cứ đến rồi đi, cứ lên rồi xuống tựa như một
chuyển động hình Sin. Người ý thức được sự tuần hoàn trong vũ trụ sẽ có một
thái độ dửng dưng, an nhiên tự tại trước những biến cố của cuộc đời. Cười người
chớ vội cười lâu, cười người hôm trước, hôm sau… người cười!
Người
cải tạo sinh hoạt trong một môi trường khép kín, vây quanh bởi lớp hàng rào kẽm
gai, cách biệt với cuộc sống bên ngoài xã hội. Tuy nhiên, đó cũng lại là một
trong những lý do khiến chúng tôi cảm thấy gần gũi với nhau hơn. Trong bối cảnh
một xã hội cùng cực luôn xuất hiện những người bạn chí cốt, những người đã chia
sẻ buồn vui trong quãng đời hoạn nạn, điêu linh.
Có
thể nói, học tập cải tạo đã dậy cho tôi, không phải là những bài học chính trị,
mà là ý nghĩa của của hai chữ “bạn bè”. Người ta thường lẫn lộn giữa Bạn và Bè.
Ta thường nghĩ “tứ hải giai huynh đệ” nhưng thật ra có những người không phải
là bạn mà chỉ là bạn nhậu, bạn chạy áp phe… giữa một xã hội xô bồ.
Bạn
cải tạo không phải là vậy. Chỉ sau một thời gian ngắn tôi đã tìm ra những người
bạn “chí cốt” mà gần nửa thế kỷ sau này mỗi khi có dịp gặp lại vẫn thấy tình bạn
nồng ấm như những ngày còn trong trại học tập. Theo tôi, một trong những nguyên
tắc để có được một tình bạn như vậy nằm trong hai chữ “vị tha”.
Nhớ
lại ngày còn mới chập chững làm quen với xã hội khép kín, miếng ăn bao giờ cũng
là mối quan tâm hàng đầu của những cái bao tử lép kẹp. Cơm được lãnh từ “anh
nuôi” về theo từng thau, cứ 5 người một thau. Làm sao để chia thau cơm thành 5
phần đều nhau là cả một bài toán khó.
Thau
cơm được cắm một chiếc đũa ngay giữa tâm của thau, từ đó vẽ ra 5 đường thẳng
chia thành 5 phần giữa 10 con mắt theo dõi một cách chăm chú. Người đứng chia sẽ
là người cuối cùng nhận phần cơm nên phải cố chia cho đều, nếu mình không muốn
nhận phần nhỏ nhất. Ai cũng hiểu “miếng ăn là miếng tồi tàn” nhưng biết làm thế
nào trong hoàn cảnh này?
Thau
cơm của 5 anh em chúng tôi không chia đều mà “tự giác” mỗi người xúc cho mình một
chén, phần còn lại để dành cho bữa “ăn sáng” ngày mai. Đó quả là một quyết định
phải nói là “phi thường” trong tình hình đói kém.
Ngày
xưa, một trong những khẩu hiệu trong quân đội là “tự thắng để chỉ huy”. Câu
chuyện “chia cơm” được kể lại ở đây với hàm ý khi con người tự thắng được dục vọng
của chính mình sẽ trở thành vị tha đối với bạn bè đồng cảnh ngộ. Thế cho nên,
tình bạn mang nhiều ý nghĩa khiến sau này gặp lại nhau vẫn không thể nào quên.
Tôi
vốn là người không có sức khỏe cường tráng như các đồng đội khác nên những người
bạn cải tạo sẵn sàng hỗ trợ khi gặp những trường hợp phải dùng sức lao động nặng.
Có bạn còn an ủi: “Cứ làm ‘thợ vịn’ cũng
được rồi!”.
Tuy
mang cái tên “thợ vịn” nhưng những lúc rảnh rỗi cũng làm “thầy” khi giúp các bạn
học thêm Anh văn để mở mang kiến thức! Tôi cũng là “học trò” của một anh bạn giỏi
chữ Hán. Không có tài liệu nên “thầy” dậy viết theo cách “nhớ tới đâu, dậy tới
đó”. Chúng tôi chỉ dùng que để viết trên đất. Thế là đủ!
Tôi
cũng có một thời gian bị bệnh tại Trảng Lớn: đau thắt bên lưng và đi tiểu gắt.
Mấy bác sĩ quân y cải tạo định bệnh ngay là sạn thận vì hậu quả của việc lao động
nặng. Lên bệnh xá khai bệnh với y tá nhưng làm gì có thuốc trị bệnh nên lại về.
Bác sĩ cải tạo bảo phải đào rễ tranh để nấu nước uống sẽ có hy vọng tống được cục
sạn ra ngoài.
Khi
được viết thư về gia đình tôi chỉ nhắn ráng tìm “râu bắp” đem vào. Ở nhà không
hiểu tại sao nhưng cũng đem thật nhiều… râu bắp. Quả nhiên, uống nước râu bắp
và rễ tranh rất “lợi tiểu” và kết quả là hòn sạn không biết đã tự tiêu hủy hay
đã thoát ra ngoài cùng nước tiểu. Đó là phương thuốc “khắc phục” còn hiệu quả
hơn là thuốc “Xuyên Tâm Liên” ngày đó.
Kỷ vật trại cải tạo với cán lược chạm trổ
Người
cải tạo trước khi vào trại thuộc đủ thành phần trong xã hội, vì hoàn cảnh nên bị
động viên vào quân ngũ. Có anh còn có tài kể chuyện, anh kể vanh vách các tác
phẩm của Kim Dung nên tối tối chúng tôi quây quần nghe hết “Cô gái Đồ Long”,
“Anh hùng xạ điêu”, “Lục mạch thần kiếm” và cả truyện 9 lần vượt ngục của
Papillon!
Những
buổi nghe truyện như vậy kéo dài đến 9 giờ đêm khi trên trung đoàn tắt đèn và kẻng
báo đã đến giờ đi ngủ. Hôm nào người kể truyện “khó ở trong mình” (hay cũng có
thể là cần thời gian để “hệ thống hóa” cuốn truyện trong đầu), anh thông báo: “Tối nay không có phim vì… Hồng Kông chưa
đem qua!”.
Người
cải tạo còn làm được cả đàn guitar để hát nhạc vàng… nhưng khi quản giáo xuống
sẽ đổi sang… “nhạc hồng”, chẳng hạn như bài “Nếu
là chim…”. Đó là lời bài hát có tên “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh, sáng
tác năm 1970 tại miền Nam trong phong trào phản chiến.
Cách
mạng rất thích “Tự nguyện” vì lời bài hát dựa theo ý của một người Cộng sản Phương
Tây. Bài hát đặt ra 3 giả dụ bắt đầu bằng chữ “Nếu…”: là chim, là hoa, là mây
và cuối cùng “nếu là người” thì sẽ chết cho quê hương. Cũng có người cắc cớ hỏi,
vậy chứ đặt ra giả thiết “nếu là người” hàm ý gì? Chắc trước đây không phải là
người nên mới có chữ “Nếu”?
Ca
sĩ trong những đêm ca nhạc “chui” đều là “cây nhà, lá vườn”. Có những giọng ca
ngọt ngào chẳng kém gì Sĩ Phú, Tuấn Ngọc hay Elvis Phương… và có những tay đàn
điệu nghệ không thua gì “ọc-két vi-văng” trong vũ trường ngoài đời. Ban nhạc lại
còn được được giữ nhịp bằng hai chiếc muỗng… dã chiến.
Chúng
tôi tìm vui cho qua ngày, đoạn tháng vì giờ đã biết ngày về vô định. Gần Tết có
lệnh trên tiểu đoàn: tất cả tập họp mang theo toàn bộ tư trang. Có người mừng
thầm… không biết chừng… được về. Tuy không tin nhưng sâu kín trong lòng… tôi hy
vọng như vậy.
Thỉnh
thoảng vẫn có những lần kiểm tra vật dụng cá nhân nhưng lần này khác hẳn. Buổi
tập họp này rất lạ, cán bộ đọc danh sách, ai được gọi tên đứng sang một bên. Gọi
tên những người về chăng? Tôi không được gọi tên, các bạn trong cùng “thau cơm”
cũng chẳng có ai, số người được gọi tên khoảng 20 người.
Tại
trại, thành phần cải tạo có thể chia thành 2 loại chính: (1) loại lính văn
phòng có chuyên môn kỹ thuật như bác sĩ quân y, kỹ sư công binh, giáo sư biệt
phái… và (2) lính tác chiến như “giặc lái” Không quân, “giặc nói” Tâm lý chiến,
“lính thủy đánh bộ” Thủy quân Lục chiến, “cọp ba đầu rằn” Biệt động quân, “thiên
thần mũ đỏ” Nhảy dù…
Mãi
cho đến bây giờ, hình như trại đang làm công việc phân loại tù nhân vì đa số những
người được gọi tên thuộc nhóm thứ hai. Họ được lệnh di chuyển lên sân tiểu
đoàn, có xe Molotova chờ sẵn và thế là… giã từ Trảng Lớn. Giã từ “hòm thư” 7595,
“bí số” L1T5!
Mãi
sau này tôi mới biết, họ được chở về Sài Gòn nhưng đó không phải là điểm đến cuối
cùng. Họ tiếp tục cuộc hành trình từ bến tàu và trực chỉ… đảo Phú Quốc. Thân phận
tù đầy như thế đó.
Papillon
cũng đã qua nhiều lần chuyển trại tại các đảo tận ngoài khơi Thái Bình Dương. Người
cải tạo được ra đảo Phú Quốc có lẽ còn may mắn hơn những người “được” đi xe lửa
ra tận miền Bắc để về những nơi “sơn lam chướng khí”. Chúng tôi, những người ở
lại Trảng Lớn, lại là những người may mắn nhất trong số những người bất hạnh.
Bất
hạnh nhất là anh Ngô Nghĩa, sĩ quan pháo binh, đã bị xử bắn sau khi kế hoạch
“trốn trại” không thành. Anh bị hành quyết trước sự chứng kiến của đại diện các
đội. Những người tham dự buổi hành quyết hôm đó về kể lại cho anh em trong đội
từng chi tiết. Đó cũng là thâm ý của trại muốn nhắn nhủ người cải tạo: Trốn trại
là tìm đường chết!
Tôi
thấy số phận của anh Ngô Nghĩa còn bi thảm hơn Papillon sau 9 lần vượt ngục vì
kết cuộc vẫn tìm được Tự do. Còn Ngô Nghĩa của chúng tôi đã bỏ xác tại Trảng Lớn.
Tôi vẫn thắc mắc, sau này thân nhân của anh có tìm được nấm mộ đắp sơ sài,
không bia đánh dấu chứ chưa nói gì đến nhang khói?
Khi
học tập đã lâu, và chắc cũng đã “thông suốt”… chúng tôi được chuyển sang một trại
mới có tên Trảng Táo. Không ngờ cuộc đời mình cứ loanh quanh ở các trảng, hết
Trảng Lớn lại đến Trảng Táo.
Tuy
nhiên, người cải tạo vẫn thấy “hồ hởi” vì theo cán bộ, chúng tôi được “đưa ra
ngoài lao động thật sự” để chờ ngày về. Mà “vui” thật! So với Trảng Lớn về các
tiện nghi sinh hoạt thì Trảng Táo chẳng có gì nhưng lại nằm gần ga Gia Huynh có
nghĩa là gần với xã hội bên ngoài. Công tác lao động đầu tiên là vào rừng lấy
lá về dựng lán trại.
Vui
nhất là được tiếp xúc với “thế giới bên ngoài” khi nhìn những chuyến tầu qua lại.
Những chuyến xe lửa từ trong Nam ra ngoài Bắc hay ngược lại, chúng tôi gọi là “những chuyến tầu ma” trên đường sắt Thống
Nhất. “Những con ma trên tầu” yên lặng nhìn “những con ma vác lá bên đường rầy”.
Không một cái vẫy tay chứ chưa nói gì đến một nụ cười… thông cảm.
“Những chuyến tầu chợ”
thì
khác hẳn. Luôn luôn để lại cho người cải tạo nhiều ý nghĩa vì khách trên tầu là
người miền Nam, có lẽ họ đi buôn để kiếm đồng ra đồng vào. Cũng có thể họ đi
thăm bà con tại các tỉnh nhưng điều quan trọng là họ biểu thị sự thông cảm với
hoàn cảnh của những người cải tạo bằng những cái vẫy tay. Chúng tôi cũng vẫy
tay lại.
Tôi
chưa gặp trường hợp hi hữu này nhưng qua lời kể lại của những bạn cùng trại,
người cải tạo còn nhận được quà gói trong bọc nylon từ những người khách quăng
xuống từ trên tầu. Khi thì vài cục đường tán, khi thì một bịch thuốc rê… Đó là
tấm lòng của người miền Nam, dù cũng đói khổ nhưng cũng thể hiện tinh thần… “lá
rách đùm lá nát”!
Cũng
có thể chính người khách trên tầu là thân nhân của người cải tạo đứng bên đường
ray nên tìm cách tiếp tế cho những người đồng cảnh ngộ. Quà không địa chỉ chính
xác nhưng cũng đến tay người cần. Đó là tính nhân bản của người miền Nam vốn hiền
lành, chất phác.
Công
việc dựng lán trại vừa xong, kế tiếp là việc khai hoang trồng khoai mỳ chứ
không trồng rau như ở Trảng Lớn. Chế độ thăm nuôi cũng có phần cởi mở hơn xưa,
các món đồ khô để dành ăn dần được gia đình tiếp tế trong những lon mà ngày xưa
dùng để đựng sữa Guigoz.
Cũng
như các tấm vỉ sắt như đã nói ở trên, các nhà thiết kế lon Guigoz sẽ không thể
nào tưởng tượng được công dụng tuyệt vời của nó trong thời điêu linh tại Việt
Nam. Lon Guigoz đối với người cải tạo chẳng khác gì cái cặp Samsonite mà các
doanh nhân giàu có thường kè kè bên mình.
Ngoài
những “ca, cóng linh tinh” mà người cải tạo đã bỏ công ra “gò” từ những mảnh
tôn, lon Guigoz cũng được sử dụng như một cái nồi để nấu nước sôi. Đặc biệt lon
lại vừa khít, nằm lọt thỏm trong bếp làm bằng vỏ đạn đại bác 105 ly!
Chỉ
cần đục một lỗ cho củi và 2 cọng thép chắn ngang làm giá giữa “nồi Guigoz” và
lò là ta sẽ có sự ăn ý tuyệt hảo mà các nhà sáng chế chưa bao giờ nghĩ ra.
Chúng hợp nhau đến từng centimét!
Lon Guigoz trong thời điêu linh
Những
ý tưởng sáng tạo ngay cả cán bộ quản giáo cũng phải… ngả nón cối bái phục. Thế
cho nên, một anh quản giáo mang gỗ xuống nhờ cải tạo đóng “một cái thùng để dê non”. Chỉ trong vòng một ngày anh nhận được “tác
phẩm” nhưng anh lại không vừa ý: “Cái
thùng như vậy làm sao mà bỏ dê non vào được?”.
Mãi
lát sau anh mới giải thích vừa mới tậu được cái máy vô tuyến truyền hình hiệu
“dê non” chứ đâu có nuôi dê non. Và cũng mãi lúc sau người cải tạo mới hiểu. Thì
ra anh vừa mua được một cái TV hiệu Denon “second hand” ngoài chợ trời nên muốn
đóng một cái tủ đựng TV như ngày xưa người miền Nam thường có!
Chúng
tôi sống bên đường rầy xe lửa ở Trảng Táo cho đến ngày được trở về đời thường,
tính ra cũng gần tròn 3 năm. Thế vẫn còn may mắn nếu so với Đại tá Nguyễn Công
Vĩnh, người có “thâm niên” cải tạo 13 năm tại miền Bắc. Ông sinh năm 1930 tại
Long An và từ trần vào tháng 2/2017 tại Newport Beach, California, hưởng thọ 87
tuổi.
Ngày trở về của Đại tá Nguyễn Công Vĩnh
Những
chuyện buồn-vui thời cải tạo được ghi lại theo hồi ức của một người nay đã
ngoài 70. Cái tuổi “thất thập cổ lai hy” thường bị mắc chứng dễ quên hay nói
cho chính xác là “nhớ đó, quên đó”.
Với
tinh thần đó, tác giả xin góp nhặt chuyện buồn-vui thời điêu linh để thế hệ con
cháu giữ làm kỷ niệm. Có điều chi sơ suất xin người đọc niệm tình bỏ qua.
Giấy Ra Trại ký ngày 15/9/1977 nhưng phải qua đến năm 1978 mới đến tay người cải tạo. Địa chỉ trình diện là Đà Lạt nơi bố mẹ sinh sống trong khi vợ con lại ở Sài Gòn. Chính quyền khi đó thực hiện chính sách “giãn dân”, hạn chế tối đa người cải tạo trở về Sài Gòn.
***