Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Giấc mơ triệu phú


Hằng tuần vào lúc 4g chiều ngày thứ Tư và thứ Sáu, người Sài Gòn xưa vẫn thường nghe "quái kiệt" Trần Văn Trạch (1) hát bài “xổ số kiến thiết” qua đài phát thanh trước khi nghe chương trình trực tiếp truyền thanh hoặc đến tận rạp Thống Nhất trên đường cùng tên (ngày nay đổi là Lê Duẩn) để tận mắt xem mở số. Chương trình còn có các ca sĩ giúp vui xen kẽ các lần xổ lô trúng giải.

Sẽ không thể nào quên được giọng hát trầm ấm của Trần Văn Trạch với những lời kêu gọi, thúc dục mọi người mua vé số để “kiến thiết quốc gia”:

Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà

Tô điểm giang san
Qua bao lầm than
Ta thề kiến thiết
Trong giấc mộng vàng

Triệu phú đến nơi
Năm muời đồng thôi
Mua lấy xe nhà
Giàu sang mấy hồi

Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Ấy là thiên chức
Của người Việt Nam

Mua số mau lên
Xổ số gần đến
Mua số mau lên
Xổ số... gần... đến...

“Quái kiệt” Trần Văn Trạch

Tiền thân của Vé số Quốc gia là Vé số Đông Dương hay còn gọi là Đông Pháp (Loterie Indochinoise) được phát hành thời Pháp thuộc từ năm 1935, có in các thứ tiếng: Pháp, Việt, Hoa và Cămpuchia. Giá tiền ghi trên vé số là 1 đồng Đông Dương với tổng số tiền trúng giải là 300.000 đồng.

Vào năm 1935, các giải trúng gồm 8 lô, thấp nhất là 1.000 vé trúng 25 đồng và cao nhất là lô độc đắc lên đến 100.000 đồng. Năm 1937, tổng số tền giải thưởng là 900.000 đồng, trong đó có lô độc đắc trúng 6.000 đồng. Đến năm 1939, tổng số tiền trúng giải hạ xuống còn 800.000 đồng với vé trúng độc đắc 4.000 đồng và thấp nhất là 4.000 vé trúng 10 đồng.

Người ta nhận thấy giải độc đắc càng về sau càng xuống thấp nhưng các giải khác có số lượng trúng tăng cao. Giá trị của giải thưởng cũng thay đổi, từ thấp nhất 25 đồng với 1.200 lô năm 1935 đến 10 đồng 6.000 lô năm 1937 và 4.000 lô năm 1939.    

Mặt trước và sau của Vé số Đông Pháp

Vé số Quốc Gia là tiếp nối của Vé số Đông Dương, sau khi Pháp trao trả độc lâp cho Việt Nam vào năm 1951. Vé số thời kỳ này chỉ mở hàng tháng hay vài tháng một lần, chứ không xổ hàng tuần như sau này. Vé số do Bộ Kế hoạch và Kiến thiết Quốc gia phụ trách phát hành với chữ ký của Tổng trưởng và Đại lý Tổng giám đốc Ngân khố.

Tờ vé số đầu tiên của Quốc gia Việt Nam được xổ ngày 31/12/1951 với giá 10 đồng, được in bằng 3 thứ tiếng Việt, Pháp và Hoa ở mặt sau với 80.834 số trúng, tổng cộng trị giá giải thưởng 12.500.000 đồng. Giải độc đắc 1.000.000 đồng và thấp nhất là giải 100 đồng (có đến 75.000 vé trúng).

Điểm đặc biệt đáng lưu ý là tại mặt sau của tờ vé số có ghi: “Quá hạn 6 tháng sau ngày xổ số, những số trúng không tới lãnh sẽ xung vào quỹ Quốc gia Kiến ốc cục”. Đây là quỹ xây dựng nhà ở trong chương trình phục vụ dân sinh của chính phủ.

Vé số đầu tiên của Quốc gia Việt Nam (mặt trước)

 Vé số đầu tiên của Quốc gia Việt Nam (mặt sau)

Sang đến thời Đệ nhất và Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa, hình thức thiết kế trên vé số có phần thay đổi, thường là họa tiết phong cảnh các miền của đất nước, ngay cả Chùa Một Cột, Hồ Gươm và cầu Thê Húc khi đó đang thuộc miền Bắc cũng được in trên vé số ở miền Nan.

Người ta thấy ở mặt sau vé số phát hành năm 1955, tiếng Pháp đã được thay bằng tiếng Anh còn tiếng Hoa vẫn được giữ nguyên. Giá tiền vẫn 10 đồng, không khác gì thời  Pháp thuộc.

Vé số thời VNCH (1955)

Vé số thời VNCH (1958)

Ngoài vé số kiến thiết, từ 1954 tới 1975 còn có rất nhiều loại vé số từ thiện, còn được gọi là vé số Tombola, nhằm mục đích gây quỹ hay hỗ trợ cho các cơ sở từ thiện trong cộng đồng. Vé số loại này có thể được phát hành bởi tổ chức tôn giáo như Phât giáo, Công giáo, Cao Đài, Tuyên Uý… hoặc cơ sở chính quyền nhỏ hay một vài đơn vị quân đội.

Giá mỗi vé là 5 hay 10 đồng, tương đương với một tô phở bình dân hay một bữa cơm cho người nghèo tại các cửa hàng cơm xã hội thời bấy giờ. Tất cả các vé số đều có các giải thưởng bằng hiện vật do các nhà hảo tâm hiến tặng, không có giải thưởng bằng hiện kim.

Ngày mở số của những vé số này có thể bị hoãn do tình trạng bán vé quá chậm, ít người mua. Tuy nhiên, nếu hoãn đều có thông báo trên các phương tiện truyền thông. Đến ngày mở số sẽ  có thông báo phổ biến kết quả xổ số một cách rộng rãi trên báo chí và đài phát thanh.

Hình dưới đây là vé số Tombola gây quỹ xã hội của Nha Cảnh sát và Công An Nam Phần với lời ghi bên góc trái: “Vé số chỉ được bán cho nhân viên Cảnh sát, Công an và gia đình. KHÔNG ĐƯỢC PHÉP BÁN CHO TƯ NHÂN”.

Vé số Tombola

Thật tình, tôi là người cả đời chưa bao giờ mua vé số nhưng cũng có đôi lần sở hữu những tấm vé số bạn bè thân tặng để “chúc mừng năm mới” lấy hên. Tôi nghĩ đây là một cách ứng xử khôn khéo và tế nhị khi ngoài những câu chúc tụng người chúc còn kèm theo một tờ vé số thay vì tiền lì xì.

Cầm tờ vé số trong tay là bạn có quyền bắt đầu một giấc mơ “triệu phú”… cho đến khi vé số được xổ. Cũng vì thế có một triết gia nào đó đã ví hôn nhân như một cuộc xổ số, người ta chỉ biết mình có hạnh phúc hay không sau khi đã chấp nhận “một nửa của mình” qua tờ hôn thú cũng tựa như nắm trong tay tấm vé số chưa xổ.

Nói như vậy thì cũng hơi quá. Không thể đánh đồng một cuộc hôn nhân với tấm vé số vì cả hai đều thuộc về phạm trù khác hẳn nhau. Hôn nhân có thể bi quan hay lạc quan suốt cả cuộc đời còn vé số chỉ là chuyện may rủi trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Hơn nữa, người ta có thể mua vé số nhiều lần nhưng chuyện hôn nhân thì chỉ có một lần, trừ khi… nửa đường gãy gánh.

Ngày xưa cả miền Nam mỗi tuần chỉ có vài vé trúng độc đắc còn ngày nay thì 64 tỉnh thành đều in vé số, như vậy là có đến hàng chục “tân triệu phú” mỗi tuần. Một con số không biết đáng mừng hay đáng lo vì hình như mua vé số trở thành một cái “gien di truyền” trong xã hội ngày nay. Chưa kể biến tướng của vé số là anh bạn “số đề” mỗi tuần lấy đi một dòng tiền đáng kể của những người nghèo ước mơ thành triệu phú.

Số đề là một hình thức cờ bạc, không hơn, không kém. Không cần phải đi casino, chỉ việc ngồi nhà cũng có thể đánh bạc, ít thì vài chục nhiều thì vài trăm, tuần nào cũng vậy, năm này qua năm khác… Đó là một thực trạng đáng buồn khi những người càng nghèo lại càng lao vào cuộc đỏ đen, gia đình tan nát cũng chỉ vì mấy con số. Đó cũng là một thực tế đáng báo động vì nạn số đề vẫn ngày càng gia tăng chứ không giảm (2).

Mua số và dò số

Trở lại với chuyện vé số. Sau năm 1975, vé số hầu như “tuyệt chủng” ở miền Nam, vì chính quyền mới coi vé số là một hình thức cờ bạc, tàn dư của chế độ Tư bản đang dẫy chết. Người ta không biết vì lý do gì mà đến năm 1979 vé số lại bắt đầu nở rộ ở miền Nam cho tới ngày nay!

Vé số ngày nay rất đa dạng, nhiều hình thức và nhiều nguồn gốc: từ vé số thường, vé số cặp (cùng một số nhưng thuộc nhiều series), vé số đặc biệt, vé số cào… Đối với những người mua vé số “không chuyên” chẳng biết đâu mà lần. Có khi mua vé số tỉnh này lại dò kết quả xổ số của tỉnh khác nên khi thấy trúng cứ tưởng mộng triệu phú của mình đã thành sự thật. Hóa ra chỉ… trúng gió!

Trên nguyên tắc, phát hành vé số là một hình thức kinh doanh thu về lợi nhuận rất lớn. Tiền lãi sẽ được dùng trong việc kiến thiết quốc gia và vì thế mới có tên “vé số kiến thiết”. Dưới thời VNCH, đó là một trong những nguồn quỹ hỗ trợ việc xây dựng các chung cư, chẳng hạn như cư xá Thanh Đa, cư xá Đô Thành… là những chung cư đầu tiên tại miền Nam.

Ngày nay, theo báo cáo của Bộ Tài chính, chỉ riêng doanh thu về vé số của cả nước đạt khoảng 45.000 tỷ đồng vào năm 2012. Trong đó, nộp ngân sách nhà nước 16.620 tỉ, tương đương 30,7% doanh thu. Đặc biệt từ năm 2000 đến 2012, tốc độ tăng trưởng doanh thu và nộp ngân sách từ hoạt động xổ số đạt bình quân trên 15% mỗi năm.

Nguồn thu từ xổ số đã đóng góp không nhỏ vào ngân sách của một số địa phương, chiếm từ 27 đến 30% tổng thu ngân sách. Có những tỉnh như Vĩnh Long lên đến 46%, thậm chí Hậu Giang chiếm đến 48%.

Theo luật định, các địa phương phải có báo cáo về thu và chi từ nguồn xổ số nhưng đến nay người ta không hề thấy các địa phương công bố các báo cáo thuộc loại như vậy. Không thể biết rõ liệu nguồn thu từ xổ số có được dùng để đầu tư vào các công trình phúc lợi theo đúng luật hay không?

Thực tế cho thấy, việc sử dụng nguồn thu không đúng mục đích đã xảy ra, đó là trường hợp Công ty Xổ số Kiến thiết Đồng Nai đang nắm khoảng 6,61% cổ phần của Ngân hàng Đại Á. Chắc chắn đó là tiền thu được từ vé số lẽ ra phải đầu tư vào các công trình phúc lợi.

Theo báo Thanh Niên, năm 2002, vụ gian lận quay số tại Long An đã gây chấn động cả nước. Có đến 36 người đã bị truy tố, 3 đối tượng bị truy nã là kết quả dành cho những người vi phạm bao gồm thành viên Hội đồng giám sát, cán bộ Công ty Xổ số Kiến thiết Long An, cũng như những thành viên quay thưởng. Các đối tượng trong đường dây này đã móc nối, thông đồng và mua chuộc người quay số, dán số giả, thực hiện thành công 15 lần đánh tráo kết quả, 3 lần trúng đặc biệt để chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng.

Ngành xổ số kiến thiết tại Việt Nam ngày nay đã tạo việc làm cho hơn 300.000 người. Đội quân bán vé số gồm đủ thành phần, lớn bé, già trẻ và cả những người tàn tật ngồi trên xe lăn cũng xuống đường bán vé số. Với số tiền bán được hàng ngày, họ phải chiết khấu lại cho đại lý với tỉ lệ lên đến 85%.

Về phía đại lý bán vé, tổng thu nhập họ được hưởng khoảng 12-13%, tức gần 6.500 tỉ đồng. Sau khi trừ 15% chiết khấu lại cho người bán vé số dạo, thu nhập còn lại của các đại lý sẽ vào khoảng 5.500 tỉ đồng, một con số không nhỏ.

Mua vé số

Trên khía cạnh xã hội, cũng có một số vấn đề đáng suy ngẫm. Một điều dễ nhận thấy, ngoài một bộ phận nhỏ người mua vé số là người giàu, có một tỉ lệ không nhỏ là người nghèo, những người tham gia với ước mơ đổi đời để trở thành triệu phú. Thực tế họ lại  nghèo thêm vì số người mua thì đông mà người trúng lại rất ít. Người thắng cuộc vẫn là nhà cái, tức các công ty xổ số và thứ đến là các đại lý vé số.

Người trúng vé số cũng chưa chắc đã hên vì còn rất nhiều chuyện trục trặc khi đi lãnh. Một ông cụ hơn 60 tuổi tại Đà Nẵng trúng được 10 triệu đồng nhưng không thể nhận tiền thưởng vì đơn vị phát hành là Công ty Xổ số Kiến thiết Thừa Thiên - Huế không trao tiền vì… vé số bị sứt một góc nhỏ!

Liền đó, họ nói ông Long (người trúng 10 triệu đồng) làm đơn gửi Hội đồng, nếu được tuần sau sẽ giải quyết. Đến ngày hẹn, ông Long tìm đến văn phòng này, nhưng vẫn không được trả thưởng. Ông than thở: “Khi tôi trở lại, có người của Công ty nói rằng ông muốn nhận thì về tìm lại miếng rách của tờ số mang tới đây ghép lại xem có khớp không. Thật khổ, miếng rách nhỏ như móng tay, tìm đâu cho được bây giờ”.

Vé số trúng 10 triệu bị từ chối chỉ vì sứt một góc phía bên phải

Gần đây nhất, ngày 3/2/2013, ông Dương Văn Tùng ở An Giang trúng giải thưởng 100 triệu đồng do Công ty Xổ số Kiến thiết Kiên Giang phát hành. Tuy nhiên, tấm vé số vô tình bị người nhà làm rách đôi trong lúc vui mừng và dĩ nhiên bị từ chối trả thưởng.

Cho rằng vé số rách đôi là lỗi khách quan, ông Tùng đi gõ cửa khắp nơi nên Hội đồng Xổ số kiến thiết tỉnh Kiên Giang có văn bản gửi Bộ Tài chính về trường hợp này. Cuối cùng, việc chi trả tiền thưởng cho ông Tùng được thực hiện theo tinh thần công văn hướng dẫn của Bộ tài chính cùng với số ý kiến của hội đồng xổ số.

Sáng 29/4/2013, sau khi ghi đầy đủ thông tin cá nhân và ký tên vào phía sau hai mảnh rách của tờ vé số trúng thưởng, ông Dương Văn Tùng đã được nhận tiền. Trúng số như ông Tùng phải mất hơn hai tháng khiếu kiện với sự hỗ trợ của báo chí mới biến giấc mơ triệu phú thành sự thật. Nhưng dù sao ông vẫn là người may mắn.

Tờ vé số rách đôi của ông Dương Văn Tùng

Ngành phát hành vé số của Việt Nam hãy còn nhiều việc phải làm để ngày một hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó cần có những chương trình để nâng cao tác động của ngành xổ số đối với xã hội, cũng như minh bạch các khoản thu chi để khuyến khích người dân tham gia xổ số vì lợi ích cộng đồng. Về vấn đề này, các chương trình xổ số ở nước ngoài rất đáng để học hỏi.

Tại Mỹ, tiểu bang Georgia đã phát động “Chương trình Hy vọng” của Công ty Xổ số Georgia và các chương trình tiền mẫu giáo, nhờ đó đã cấp được hơn 4,6 tỉ USD giá trị học bổng cho hơn 1,1 triệu đối tượng. Tiểu bang Massachusetts tung ra chiến dịch “Tất cả chúng ta đều thắng”, trong đó giải thích rõ số tiền thu từ xổ số được sử dụng như thế nào.

***      

Chú thích:

(1) Trần Văn Trạch (1924- 1994): ca nhạc sĩ có tên thật là Trần Quang Trạch với mái tóc dài cùng giọng ca trầm ấm, cộng thêm nghệ thuật biểu diễn mới lạ, vui nhộn, độc đáo... ông được khán giả, báo chí trước 1975, phong tặng danh hiệu “quái kiệt”.

Trần Văn Trạch sinh tại làng Đông Hòa, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), trong gia đình có truyền thống nhạc cổ và sân khấu tuồng. Ông Trạch có người cô thứ ba tên là Trần Ngọc Viện (Ba Viện, 1884-1944). Bà biết hát nhiều điệu hát, biết sử dụng nhiều nhạc cụ dân tộc, nhưng điêu luyện nhất là đàn thập lục (đàn tranh) và đàn tỳ bà. Bà chính là người đã thành lập gánh hát Đồng Nữ Ban vào khoảng năm 1927, với một điểm đặc biệt là tất cả các diễn viên đều là nữ, một hiện tượng duy nhứt trong lịch sử hát cải lương miền Nam. Và bà cũng là người nuôi dạy ba người con của ông Triều, khi vợ ông Triều là bà Nguyễn Thị Dành (1899-1930) mất sớm. Sau này, cả ba người cháu này đều thành danh, đó là Giáo sư Trần Văn Khê, quái kiệt Trần Văn Trạch và ca sĩ Trần Ngọc Sương.

Năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Pháp trở lại Việt Nam, những phòng trà được phép mở cửa trở lại. Bằng tài năng của mình, buổi đầu Trần Văn Trạch xin vào làm hoạt náo (MC) và hát tại dancing Théophile ở vùng Dakao. Sau khi có được một số vốn, ông xin mở một phòng trà nhỏ ở đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng).

Trong thời gian này anh sống với người vợ Pháp và có một đứa con. Vì thế ông bị những người theo Việt Minh kết tội là Việt gian. May mắn được anh trai Trần Văn Khê kịp nhờ người bảo lãnh, nên ông Trạch mới được tha nhưng phải gia nhập vào Ban nhạc quân đội của Việt Minh, rồi cùng với anh, đi lưu diễn khắp miền Tây.

Khoảng năm 1946-1947, Trần Văn Trạch không theo ban nhạc nữa, về Sài Gòn, cùng em gái là Trần Ngọc Sương mở quán nước tại khu Bàn Cờ. Nhằm câu khách, đôi khi ông Trạch hát những bài nhạc Pháp cho lính Pháp nghe, nên ông được bạn bè đặt cho anh một cái tên rất "Tây" là Tracco.

Trần Văn Trạch quen với nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996), phát hiện được khả năng hài tiềm ẩn trong con người ông Trạch, nên lần đầu tiên Lê Thương viết thử nghiệm một bài ca hài cho ông trình diễn. Ðó là bài Hòa bình 48 (1948) hát nhái tiếng đại bác, tiếng máy bay ném bom...

Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch và Lê Thương

Được người nghe hoan nghênh, Lê Thương viết tiếp bài Liên Hiệp Quốc hát bằng tiếng Pháp, Anh, Nga, Tàu, bài Làng báo Sài Gòn phê bình các nhà báo nói láo ăn tiền, chạy theo thực dân Pháp... và cũng do ông Trạch hát. Chính vì vậy, Lê Thương, Trần Văn Trạch... đã bị cảnh sát mời vào bót Catinat ở mấy ngày.

Đến năm 1949, nhận thấy tân nhạc bắt đầu thịnh hành, Trần Văn Trạch nảy ra ý nghĩ mở Đại nhạc hội, là một chương trình văn nghệ bao gồm ca, vũ, nhạc, kịch, xiếc, ảo thuật... Với cách làm này, Trần Văn Trạch chinh phục được nhiều khán giả trên khắp mọi miền. Và kể từ đó cái tên đại nhạc hội bỗng trở nên phổ biến.

Năm 1951, bắt đầu từ rạp Nam Việt, ông Trạch đưa ca nhạc vào các rạp chiếu bóng để diễn trước giờ chiếu phim chính. Cách làm này cũng được nhiều người xem hoan nghênh và cụm từ "chương trình văn nghệ phụ diễn" cũng ra đời từ đó. Cũng năm này, vì nhu cầu trình diễn, ông Trạch đã tự sáng tác ra những bản nhạc hài hước để tự mình trình diễn lấy.

Bản nhạc Anh phu xích lô là sáng tác đầu tiên của ông:

“Có ai mà muốn đi tới Chợ Lớn
Có ai mà muốn đi tới Chợ Mới
Có ai mà muốn đi chóng cho mau tới
Ê tôi xin mời lại đây.

Chiếc xe này có bảo kiết thật chắc
Bánh xe thì tốt thùng có bọc sắt
Nếu khi mà có đụng phải xe jeep
Quý ngài chẳng hề hấn gì...”

Thành công kể từ đó cho tới ngày ký hiệp định Genève (1954) ông viết tiếp Cái tê lê phôn, Cái đồng hồ tay, Cây bút máy, Anh chàng thất nghiệp, Sở vòi rồng, Đừng có lo, Tôi đóng xi nê, Chiếc ô tô cũ, Chiến xa Việt Nam.. Và bài nhạc nào của ông cũng làm người nghe bật cười, thích thú...

Tuy vậy, không phải ông Trần Văn Trạch chỉ sáng tác nhạc hài hước, đôi khi trong nhạc cũng pha lẫn chút triết lý, như bài Khi người ta yêu nhau:

“Khi người ta yêu nhau
Yêu trong lúc bẩy mươi tuổi đầu
Thì không phải vì tiền đâu
Nhưng mà chẳng còn bao lâu...”

Hoặc pha lẫn chút bi như bản Chuyến xe lửa mùng 5 (1952), kể lại chuyện đi thăm mẹ của một chàng trai. Lúc đầu, là những đoạn nhạc hài hước, với những tiếng động của nhà ga, của xe lửa... Nhưng đoạn cuối là một khúc bi ca, khi chàng trai ấy về đến nhà mới biết mẹ mình đã qua đời...

Cũng trong năm này, ông đã sáng tác và hát bài Xổ số kiến thiết quốc gia, Nhờ bài hát này, tên tuổi ông càng được nhiều người biết đến. Ngoài nghiệp ca và sáng tác, Trần Văn Trạch còn đảm nhận ban nhạc Sầm Giang trên đài phát thanh Pháp Á từ năm 1950 tới năm 1954.

Ban Sầm Giang quy tụ một số nhạc sĩ có tên tuổi như cố nhạc sĩ Võ Đức Thu, Khánh Băng, Nghiêm Phú Phi, các ca sĩ có tiếng thời 1950, như: Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tôn Thất Niệm, Linh Sơn, Mạnh Phát, Minh Diệu, Túy Hoa, Tâm Vấn... Đến năm 1953, có thêm những bộ mặt mới như nữ kịch sĩ Bích Thuận, Duy Trác, Tùng Lâm, ban Thăng Long và bé Bạch Yến.

Trần Văn Trạch cũng đã cộng tác với nền điện ảnh Việt Nam ở trong giai đoạn phôi thai. Năm 1955, cộng tác với hãng phim Mỹ Phương bên Pháp, sản xuất được hai cuốn phim là Lòng nhân đạo (1955) và phim Giọt máu rơi (1956). Cả hai phim này ông đều đóng chung với nghệ sĩ Kim Cương.

Sau khi rời hãng phim trên, Trần Văn Trạch cộng tác với người Hoa ở Chợ Lớn để lập hãng phim Việt Thanh, và tự làm đạo diễn cho hai cuốn phim về truyện cổ tích Việt Nam, đó là phim Thoại Khanh Châu Tuấn (1956, với Kim Cương và Vân Hùng) và Trương Chi Mỵ Nương (1956, đóng chung Trang Thiên Kim - La Thoại Tân).

Năm 1960, Trần Văn Trạch sang Paris (Pháp) và thường xuyên hát tại nhà hàng La Table du Mandarin, Paris, quận 1. Lưu diễn khoảng sáu tháng, năm 1961, ông trở về Sài Gòn với một tiết mục mới là trò múa rối học được ở Pháp, hát thành công bản Chiều mưa biên giới của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông theo kiểu sound track (phần nhạc do ban nhạc của Pháp thu sẵn trên băng nhựa).

Kể từ 30/4/1975 và mấy năm sau đó, Trần Văn Trạch tạm sống một cuộc đời bình thường, thỉnh thoảng cũng đi lưu diễn cùng với một số nghệ sĩ khác. Tháng 12/1977, Trần Văn Trạch rời Sài Gòn sang định cư ở Paris (Pháp). Từ đó trở đi cho tới ngày từ trần, Trần Văn Trạch, từng nổi tiếng là quái kiệt, gần như tạm dừng công việc nghệ thuật, xoay ra làm nghề khác để kiếm sống.

Ở hải ngoại, ông không chỉ sáng tác được một vài bài. Về sinh hoạt văn nghệ, ông cũng chỉ có bốn cuốn băng là Hài hước Trần Văn Trạch (Thúy Nga, Paris, 1982) Con đường hạnh phúc (Thanh Lan, 1983), và Allô Paris (Giáng Ngọc, Paris 1986). Về phía phim video, ông cũng có làm một cuốn kỷ niệm Hài hước Trần Văn Trạch (quận Cam, California, Hoa kỳ, 1983) và trong cuốn Thi ca nhạc kịch Việt Nam (Hà Phong thực hiện, Paris, 1984)

Ngoài ra ông cũng có đi diễn cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ năm 1983 và 1986, ở Úc châu năm 1984... Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, Trần Văn Trạch thường đi sang Hoa kỳ làm nghề quảng cáo trên đài Truyền hình Việt Nam ở Quận Cam.

Tháng 2 năm 1994, do bị ung thư gan, ông trở về Paris và nằm chữa bệnh tại bệnh viên Thenon ở Paris. Trần Văn Trạch mất ngày 12/4/1994, hưởng thọ 70 tuổi. Ông được an táng tại nghĩa trang Cimetière Intercommunal ở Valenton, ngoại ô Paris.

(Nguồn: Wikipedia)

(2) Xem thêm “Sài Gòn tứ đổ tường (3) - Cờ bạc”

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (Những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)


--> Read more..

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Bích chương tuyên truyền & cổ động: Thời Xã hội Chủ nghĩa

(Tiếp theo)

Đảng Cộng sản Việt Nam có một hệ thống rất lớn từ trung ương tới địa phương để tuyên truyền, tất cả đều đặt dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương. Tuyên truyền ở miền Bắc dưới thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1954 – 1975) mang tính một chiều nhằm cổ động tư tưởng chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, bộ máy tuyên truyền chống lại các tiếng nói đối nghịch, phê phán Đảng Cộng sản hoặc cái gọi là “thế lực phản động”.

Một trong những bức ảnh thuộc lại xưa nhất nói về công tác tuyên truyền của miền Bắc được chụp ngày 13/2/1968. Cô công nhân Nguyễn Thị Liên đang đọc báo Nhân Dân trong khi các công nhân khác đang làm việc tại nhà máy Dệt kim Hà Nội. Người ta thấy chiếc loa được làm bằng giấy bồi để phục vụ công tác tuyên truyền. 

Công tác tuyên truyền sơ khai tại Hà Nội năm 1968

Để có được nguồn nhân lực và vật lực phục vụ cuộc chiến tranh vừa qua, ngoài sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc, nhà nước VNDCCH còn huy động nhân dân miền Bắc hy sinh tất cả cho “miền Nam ruột thịt”. Sự hy sinh và cũng là nhiệm vụ đó được thể hiện qua bức tranh cổ động được chia thành 2 mảng: phía trước là hoạt động nông nghiệp, phía sau là hình ảnh một đội quân. Trên cùng là một câu lục bát:

“Thóc không thiếu một cân
Quân không thiếu một người”

Tranh cổ động thời chiến tranh

Một số bích chương tuyên truyền về xã hội cũng có thơ lục bát, chẳng hạn như bức tranh cổ động mang tựa đề Tăng gia sản xuất:

“Lúa tốt, lợn béo, gà đàn
Góp phần xây dựng, xóm làng ấm no”

Bức tranh mang dáng dấp của loại tranh Đông Hồ (1) với hình ảnh lợn, gà thường thấy trong loại tranh dân gian này.

Tăng gia sản xuất

Bức tranh thứ 2 có tên Tấc đất tấc vàng với lời ca tụng “Bộ đội đến đâu, tăng gia đến đấy” nhằm tuyên truyền cho hình ảnh người lính miền Bắc, không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ quê hương mà còn… tăng gia sản xuất.

Tấc đất tấc vàng

Cuộc chiến trở nên ác liệt vào năm 1972 khi không lực Hoa Kỳ bắt đầu oanh tạc miền Bắc để buộc Hà Nội phải đi đến hòa đàm tại Paris. Đây cũng là lúc tranh cổ động xuất hiện nhiều tại miền Bắc để tuyên truyền, xốc lại tinh thần của người dân trước những cuộc oanh kích ngay tại thủ đô.

Trong các bích chương dưới đây người ta thấy xuất hiện những khẩu hiệu như “Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi” và “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”. Ở bức tranh thứ nhất, tiền cảnh là “giặc lái” Mỹ bị nữ dân quân bắt sống tại miền Bắc và hậu cảnh là đôi nam nữ quân giải phóng miền Nam.

Người Hà Nội với những bức tranh cổ động năm 1972

Ngoài các loại vũ khí phòng không như “tên lửa” SAM-2 do Liên Xô cung cấp, Hà Nội còn tung ra chiến dịch tuyên truyền cho mặt trận “Điện Biên Phủ trên không” kéo dài 12 ngày đêm vào cuối tháng 12/1972. Bức tranh cổ động dưới đây là hình ảnh người nữ dân quân phòng không với khẩu hiệu Giữ lấy trời xanh của ta:

Giữ lấy trời xanh của ta

Theo vtc.vn, (http://vtc.vn/2-359385/xa-hoi/ten-lua-sam-2-noi-khiep-dam-cua-than-tuong-hoa-ky.htm), trong chiến dịch phòng không, 14 tiểu đoàn tên lửa SAM-2 bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng đã bắn rơi 27 máy bay B-52. Tuy nhiên, Hoa Kỳ chỉ thừa nhận mất 25 chiếc B-52 trong toàn bộ cuộc chiến, trong đó có 15 chiếc bị SAM-2 bắn rơi trong Chiến dịch Linebacker II.

Bích chương dưới đây cho thấy miền Bắc khi đó đã đạt được trình độ vẽ tranh tuyên truyền khá cao và cách đặt tiêu đề cũng rất khéo: Bay cao bay thấp đều không thoát. Chỉ tiếc một điều, kiểu chữ thể hiện tiêu đề quá đơn giản, thiếu tính nghệ thuật và không thuyết phục người xem.      

“Bay cao bay thấp đều không thoát”

Sáng tác bích chương cũng còn nhiều vấn đề cần bàn cãi. Trường hợp bức Pháp luật Bảo hộ Lao động, nếu tinh ý nhận xét, người ta thấy ngay bức tranh được vẽ theo phong cách “Mao Tuyển” (2) tại Trung hoa Lục địa với trang phục và khuôn mặt của các nhân vật… Tầu!
 
Pháp luật Bảo hộ Lao động

Điều này cũng dễ hiểu vì VNDCCH vào thời kỳ này gắn bó với Trung Quốc, người láng giềng tốt trong giai đoạn 1954-1975. Chúng tôi đã tìm được nguyên bản bức tranh cổ động “Mao Tuyển” của Trung Quốc ra đời trước bức Pháp luật Bảo hộ Lao động của VNDCCH:  

Tranh cổ động “Mao Tuyển” của Trung Quốc

Sau này, bức tranh Pháp luật Bảo hộ lại xuất hiện trước Ủy ban Nhân dân quận Ninh kiều, thành phố Cần Thơ do kỹ sư Nguyễn Đình Đông (Dongblog) chụp được năm 2010. Theo blog Quê Choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập, sau khi tấm hình dưới đây được đưa lên vào buổi sáng thì đến chiều tối ngày 27/3/2010 tấm pano đã được gỡ bỏ. Như vậy là bức tranh Pháp luật Bảo hộ có một cuộc hành trình khá kỳ thú: vượt lãnh thổ quốc gia và vượt cả thời gian…  

Bích chương “Pháp luật Bảo hộ” xuất hiện tại Cần Thơ năm 2010

Những trường hợp tương tự như bức tranh Pháp luật Bảo hộ không phải là hiếm. Nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và 20 năm ngày hội Quốc phòng Toàn dân, một tấm bích chương có hình ảnh “người lính Cụ Hồ” diễu hành dưới lá cờ đỏ sao vàng. Tranh được dựng tại nhiều nơi vào cuối năm 2009.

Dân cư mạng xôn xao bàn tán: người lính Việt Nam có khuôn mặt rất… Tầu. Ông Nguyễn Thành Rum, Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin TP HCM, nói đó là do sơ suất của đội ngũ làm tranh cổ động!

Lính Việt Nam hay lính Trung Quốc?

Tưởng cũng cần nhắc lại vào năm 1979 đã xảy ra cuộc chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc. Guồng máy tuyên truyền của nhà nước đã kịp thời cho đặt nhiều panô chống “bá quyền Trung Quốc” tại nhiều nơi trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Ngôn từ trong tranh chống Trung Quốc rất quyết liệt.

Chẳng hạn như bích chương dưới đây. Sau khi dẫn lời Hồ Chủ Tịch “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, bức tranh đưa ra những lời lẽ đanh thép: “Trừng trị đích đáng bọn phản động Trung Quốc xâm lược”.

Bích chương chống Trung Quốc năm 1979

Tại Sài Gòn, ngay trước Nhà hát Thành phố, có một bích chương cổ động cho cuộc triển lãm mang tên “Chiến thắng quân Trung Quốc xâm lược”. Những hình ảnh này thuộc loại “nhân chứng lịch sử”, ghi lại những thăng trầm trong suốt một giai đoạn dài của đất nước.

Bích chương triển lãm “Chiến thắng quân Trung Quốc xâm lược”
trước Nhà hát Thành phố

Xem ra việc nghiên cứu các bích chương qua nhiều thời kỳ của nhiều chế độ chính trị khác nhau cũng là một hình thức rút ra những bài học lịch sử cho người đời nay và cả những đời sau.   

***

Chú thích:

(1) Tranh Đông Hồ: tên đầy đủ là Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Làng tranh Đông Hồ xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ.

Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Thơ Tú Xương về tranh Đông Hồ ngày Tết có câu:

“Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Loẹt lòe trên vách bức tranh gà”

Tranh Đông Hồ

(2) Mao Tuyển (Tuyển tập Mao Trạch Đông): Trước ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một số bài viết, bài nói của Chủ tịch Mao Trạch Đông đã được in thành những cuốn sách nhỏ lưu hành trong vùng giải phóng. Tuy vậy phải đến sau ngày 1/10/1949, khi “Uỷ ban xuất bản tuyển tập Mao Trạch Đông của Tung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc” được thành lập thì sự xuất hiện của loại sách này mới đều đặn và với qui mô ngày một lớn hơn.

Tháng 10/1951, tập I của Tuyển tập ra mắt, tiếp đó là tháng 4/1952 ra mắt tập II, tháng 4/1953 ra mắt tập III và tháng 10/1960 ra mắt tập IV và phải đợi đến sau khi Mao Trạch Đông chết, tập V mới ra mắt vào cuối năm 1976.

Tuyển tập Mao Trạch Đông

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (Những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

--> Read more..

Popular posts