(Tiếp theo)
--> Read more..
Đi từ đồng bằng lên
cao nguyên bằng đường bộ chúng ta sẽ phải qua những đoạn đường đèo xuyên núi.
Việt Nam
có khoảng hơn 30 đường đèo lớn nhỏ cũng như dài ngắn. Trong phạm vi bài viết
này chúng tôi chỉ đề cập đến những cái tên bình dị nhưng cũng kỳ lạ của núi và
đèo mà tôi đã từng nghe đến hoặc có dịp đi qua trong những chuyến cross-country
xuyên Việt vào cuối thập niên 90.
Rời xứ võ Bình Định của “anh hùng áo vải” Quang Trung chúng
tôi đến Quảng Ngãi, “quê mía, xứ đường”. Người ta còn đặt cho Quảng Ngãi biệt
danh vùng đất “núi Ấn, sông Trà” với ngọn núi Thiên Ấn được vua Tự Đức phong
tặng là “danh sơn” và sông Trà Khúc được xếp vào loại “đại xuyên”. Quảng Ngãi còn
có 150 km bờ biển, kéo dài từ An Tân (chứ không phải Tân An ở miền Nam )
đến Sa Huỳnh, với nhiều bãi biển đẹp như Mỹ Khê, Khe Hai, Minh Tân…
Trong chiến tranh Việt Nam, thôn Mỹ Lai, làng Sơn Mỹ thuộc
huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi được cả thế giới biết đến qua phương tiện
truyền thông với những cái tên như My Lai
Massacre, Son My Massacre hoặc Pinkville theo tên gọi của quân đội Hoa Kỳ.
Địa danh này đã đi vào những trang lịch sử u buồn của Quảng Ngãi với 504 thường
dân, hầu hết là đàn bà và trẻ em, đã bị quân đội Hoa Kỳ tàn sát vào sáng ngày
16/3/1969 [1].
Vụ
thảm sát tại Sơn Mỹ (Mỹ Lai)
Sinh viên Mỹ rất háo hức trên đường đến khu chứng tích
Sơn Mỹ. Tuy nhiên, sau chuyến thăm nơi này, tôi thấy những người thuộc thế hệ
trẻ bỗng trở nên ít nói hơn so với trước đó. Lý do tại sao thì cũng dễ hiểu
nhưng điều đáng ngạc nhiên là một chuyện xảy ra từ hơn 30 năm về trước đã có
tác động mạnh đến những suy nghĩ về chiến tranh và hòa bình của thế hệ trẻ.
Những người đã từng tham chiến
thuộc thế hệ già nua như tôi, như những người anh em phía bên kia chiến tuyến cũng
như những người Mỹ thuộc lớp “baby-boomers” chiến đấu tại Việt Nam có thể nhìn chiến
tranh dưới một khía cạnh trần trụi, khắc nghiệt: giết người hoặc bị người giết.
Tất cả chúng tôi hầu như đều chấp nhận những thảm kịch của chiến tranh, coi đó
như một điều tất yếu phải xảy ra, không với bên này thì cũng với bên kia.
Nhưng, đối với thế hệ trẻ, cả Việt lẫn Mỹ, họ đều có những suy nghĩ khác hẳn.
Dọc hai bên lối đi vào Khu chứng
tích Sơn Mỹ là những bia đá ghi lại địa điểm những ngôi nhà của các gia đình đã
bị tàn sát chen lẫn vết tích của các hầm tránh đạn và những bức tượng nhỏ mang
hình ảnh của nạn nhân. Gốc cây gòn, nơi một số dân làng bị giết vẫn còn đó và
phía sau tượng đài là một bức bích họa đầy màu sắc thể hiện hình ảnh của vụ
thảm sát. Phía bên trái lối đi là tòa nhà trưng bày chứng tích gồm hình ảnh và
hiện vật còn sót lại của làng Sơn Mỹ.
Khu chứng tích Sơn Mỹ thu hút rất
nhiều khách tham quan người Mỹ thuộc mọi thế hệ, đặc biệt là những cựu binh
tham gia chiến tranh Việt Nam .
Họ trở lại đây với nhiều tâm trạng khác nhau, có thể đó chỉ đơn thần là một
chuyến du lịch và cũng có thể là một cuộc hành hương tìm về quá khứ. Hugh
Thomson, viên chuẩn úy phi công lái chiếc trực thăng trinh sát đã từng chứng
kiến cảnh tàn sát, cũng đã trở lại Sơn Mỹ để thực hiện phim Tiếng vĩ cầm tại Mỹ Lai nhân kỷ niệm 30
năm vụ thảm sát.
Tượng đài kỷ niệm tại Sơn Mỹ (Mỹ Lai)
Từ Quảng Ngãi chúng tôi đến Quảng Nam, nơi có nhiều ngọn cao
trên 2.000 m như núi Lum Heo (2.045 m), núi Tion (2.032 m), núi Gole - Lang (1.855
m). Giữa Quảng Ngãi và Kon Tum còn có ngọn Ngọc Linh cao 2.598 m, đây cũng là
đỉnh cao nhất của dãy Trường Sơn.
Ngoài ra, vùng ven biển phía đông sông Trường Giang là dải
cồn cát chạy dài từ Điện Ngọc, Điện Bàn đến Tam Quan, Núi Thành. Bề mặt địa
hình Quảng Nam bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi khá phát triển gồm sông Thu
Bồn, sông Tam Kỳ, sông Trường Giang và sông Cổ Cò.
Cảnh đẹp ít người biết đến trên sông Cổ Cò,
Hội An
Sau năm 1975, hai tỉnh Quảng Nam , Quảng Tín và thành phố Đà Nẵng được sáp
nhập thành tỉnh Quảng Nam -
Đà Nẵng nhưng đến năm 1997, hai tỉnh này lại được chia thành các đơn vị hành
chính độc lập gồm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam . Tỉnh có 14 huyện với những cái
tên khá ngộ nghĩnh như Giằng (nay là huyện Nam Giang), Hiên (nay là Đông Giang
và Tây Giang) và 2 thị xã là Tam Kỳ và Hội An (nay là thành phố Hội An).
Tin vui đến với Hội An vào những
ngày cuối năm 1999 khi UNESCO đã chính thức công nhận phố cổ Hội An và thánh
địa Mỹ Sơn là Di sản Văn hóa Thế giới. Đây cũng là miền tự hào của người dân
Quảng Nam
vì cả hai di sản đều thuộc địa phận tỉnh.
Thật đáng tiếc, chúng tôi không có đủ thì giờ thăm thánh địa Mỹ Sơn nằm
cách thành phố Đà Nẵng gần 70 km. Một phần vì khoảng cách khá xa hơn nữa sinh
viên Mỹ đã có dịp đến nhiều ngôi tháp của người Chàm nằm trên Quốc lộ 1 A dọc
theo duyên hải miền Trung.
Ngành du lịch Hội An gần đây đã
thực hiện những bước đột phá ngọan mục với việc phát hành loại vé mang tên Một lần thăm đô thị cổ Hội An. Khách du
lịch có thể tùy ý lựa chọn 5 điểm trong đó giới thiệu Bảo tàng Lịch sử - Văn
hóa, Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch và Bảo tàng Văn hóa Sa Hùynh.
Khách cũng có thể chọn 1 trong 3
hội quán cổ của người Quảng Đông, Triều Châu hoặc Phúc Kiến và 1 trong 4 ngôi
nhà cổ gồm Nhà thờ tộc Trần, Phùng Hưng, Quân Thắng và Tấn Ký. Điểm du lịch thứ
tư có thể là sự lựa chọn giữa Cầu Nhật Bản và miếu Quan Công; cuối cùng là sự
lựa chọn một trong những di tích còn lại trong vé.
Tại mỗi điểm, khách sẽ được nhân
viên hướng dẫn tận tình với thời gian không hạn chế. Tuy nhiên, Hội An cần xét
lại sự chênh lệch về giá vé giữ khách nội địa và khách quốc tế. Trong khi khách
trong nước chỉ trả 10.000 đồng thì khách nước ngoài phải trả đến 50.000, một số
tiền tương đối lớn đối với những sinh viên của đoàn chúng tôi hãy còn phụ thuộc
vào gia đình.
Rõ ràng là Hội An mang lại cho
khách du lịch sự thoải mái rất khó tìm tại những thành phố du lịch khác trên đất
Việt. Tại đây không có những ‘đội quân’ bán hàng rong kiên nhẫn bám theo khách
như ‘đỉa đói’. Người Hội An rất hiếu khách. Một anh xe ôm đã tận tình đưa tôi
đi khắp các điểm tham quan, anh giải thích cặn kẽ từng chi tiết, nhớ từng niên
biểu như một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp.
Vốn kiến thức của người chạy xe
ôm về Hội An rất phong phú nhưng điều quan trọng hơn cả là niềm tự hào của anh
khi được nói về phố cổ như của chính mình. Phải chăng truyền thống tiếp xúc với
phần còn lại của thế giới từ thế kỷ thứ 16 đã tạo cho người Hội An nét đặc thù
trong giao tiếp?
Đặc sản của phố cổ Hội An là món cao lầu. Một tô cao lầu gồm những sợi mỳ
màu vàng, bên trên là tôm, thịt heo, các loại rau sống và rất ít nước dùng, từa
tựa như mì quảng. Sợi mỳ màu vàng là do được trộn với tro của một loại cây ở
địa phương. Nhiều người cho rằng món này của người Hoa, nhưng Hoa kiều ở đây
lại không công nhận nó. Còn người Nhật thì cho rằng nó giống mỳ udon của họ
nhưng khác về hương vị và cách chế biến.
Tinh túy của món cao lầu là sợi mì, thường được chế biến rất công phu.
Đầu tiên, gạo thơm đem ngâm vào nước tro, mà phải là tro nấu củi lấy ở tận Cù
lao Chàm, hòn đảo cách Hội An 16 km, mới tạo ra được sợi mì có độ giòn, dẻo và
khô. Sau đó lọc kỹ, xay thành bột; nước xay gạo phải là nước ở giếng Bá Lễ do
người Chàm đào cách đây cả ngàn năm, mới được nước ngọt, không bị phèn và mát
lạnh. Cao lầu quả là… cầu kỳ.
Cao lầu với thịt và da heo
chiên
Ẩm thực Quảng Nam
cũng có nét cá biệt đáng ghi lại như ở Tam Kỳ có món cơm gà nổi tiếng. Chỉ trên
đường Phan Chu Trinh – Phan Bội Châu tôi đã thấy có tới mấy quán như Cơm gà bà
Luận, Cơm gà Tam Duyên, Cơm gà Hải Phương, Cơm gà Đặc sản bà Huế…
Riêng bà Luận còn có
một hệ thống gồm 4 nhà hàng tại Sài Gòn lúc nào cũng đông khách sành ăn. Có lẽ
bí quyết của món này phải là gà ta nuôi tại Tam Kỳ và cơm được nấu bằng nước
luộc gà, tất cả đều đượm một màu vàng ươm bắt mắt.
Cơm gà Tam Kỳ
Rời Đà Nẵng chúng
tôi chuẩn bị vượt qua một ngọn đèo được mệnh danh là “Đệ nhất Hùng quan” dài 20
km xuyên qua dãy Trường Sơn. Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông trong một
lần vi hành đã dừng lại trên đỉnh đèo để ngắm cảnh làm thơ. Trước cảnh hùng vĩ
của trời mây và biển cả, nhà vua đã phong cho ngọn đèo này danh hiệu “Đệ nhất
hùng quan”. Ngọn đèo này gần như quanh
năm sương mù, mây xuống rất thấp và có những đoạn trông ra biển từ độ cao 500
mét.
Đó là đèo Hải Vân,
một cái tên kết hợp giữa biển và mây. Đèo Hải Vân cũng là ranh giới tự
nhiên giữa hai thành phố Đà Nẵng và Huế. Hải Vân (còn gọi là Ải Vân) đã đi vào
ca dao dân gian với âm điệu trầm buồn:
Chiều chiều mây phủ Ải Vân.
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn.
Đèo Hải Vân
Quốc lộ 1A trước đây được gọi là Đường Cái Quan, nơi băng
qua đèo Hải Vân rất ít người dám qua lại vì hiểm trở, thú dữ và cướp bóc... Vào
thời Pháp thuộc, con đường này được sửa sang thông thoáng hơn, đồng thời người
Pháp còn cho xây dựng tuyến đường sắt và đường hầm song song với đường đèo. Cho
đến nay, đường đèo Hải Vân vẫn là một nỗi ám ảnh đối với cả người lái xe và
hành khách trên xe:
Đi bộ thì sợ Hải Vân
Đi thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi
Đèo Hải Vân mọi người đều biết, còn Hang Dơi thì nằm ở chân
núi kề biển về phía Lăng Cô, ở đây thường có sóng lớn làm đắm thuyền. Đó là hai
nỗi sợ của những người phải di chuyển trên khu vực này.
Năm 1695, một thương nhân người Anh tên Thomas Bowyear đã
ghi lại: “Ngày 4.10.1695, khởi hành từ Faifo
[Hội An], đi dọc theo bờ biển và trên
các núi cao, dù có con đường ngắn hơn nhưng bị cấm, nên tôi không thể đi
được...” [2]. Con đường bị cấm mà
Bowyear nói đến có lẽ là đoạn từ Lăng Cô ra Huế bằng cách vượt qua các đèo Phú
Gia, Cầu Hai và Đá Bạc.
Một khúc cua gắt trên đèo Hải Vân
Vùng đất Hải Vân xưa thuộc hai châu Ô và Rí của vương quốc
Chàm. Vua Chế Mân hiến tặng vua Trần Nhân Tông làm sính lễ cầu hôn công chúa
Huyền Trân. Câu chuyện về Huyền Trân đã trở thành một đề tài trong thi ca, nghệ
thuật. Có lẽ vào thời đó, người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém nên đã
có câu:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Điểm đặc biệt chỉ có thể thấy ở Hải Vân là từ trên đỉnh đèo
có thể quan sát cả hai phía vào những ngày đẹp trời. Phía bắc là đồi núi trập
trùng phủ màu mây trắng, xa xa là đầm Lập An, vịnh Lăng Cô thuộc địa phận Thừa
Thiên – Huế. Phía nam, sóng biển vỗ quanh triền núi, xa hơn nữa là toàn cảnh
thành phố Đà Nẵng bên bờ sông Hàn.
Như đã nói, Hải Vân còn được gọi là Ải Vân. Ngày nay, trên
đỉnh đèo Hải Vân vẫn còn dấu vết của một cửa ải, gọi là “Hải Vân Quan”, xây từ
đời Trần, và được trùng tu vào thời Nguyễn. Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba
chữ “Hải Vân Quan”, cửa trông xuống Quảng Nam đề “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”
bằng chữ Hán.
Điểm dừng chân trên đỉnh đèo Hải Vân
Xe của chúng tôi dừng lại rất lâu
tại đỉnh đèo. Một kỷ niệm đáng nhớ nhất trên đỉnh Hải Vân là cảnh đoàn sinh
viên Mỹ họp nhau trước cửa ải để cất tiếng hát Lên đàng…
Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
Kiếm nguồn tươi sáng
Ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông
Từ nay ra sức anh tài
Tiếng hát vang trên nền thành
quách cổ, những lời ca còn ngọng nghịu dù đã tập đi tập lại nhiều lần nay được
dịp vang vọng trên đỉnh đèo Hải Vân quanh năm mây phủ. Tôi nghĩ, đó là một
trong những giây phút ấn tượng nhất của chuyến cross-country, trong số đó có 2
sinh viên người Mỹ gốc Việt.
Đó là vào thời điểm cuối thập
niên 90. Giờ thì lớp sinh viên đó đều đã trưởng thành, có người đã trở thành
tiến sĩ, người là doanh nhân thành đạt, thậm chí có người đã trở lại Việt Nam để
kinh doanh và sinh sống [2]. Tôi nghĩ, không ít thì nhiều, những tháng ngắn
ngủi trên đất Việt đã để lại cho họ nhiều cảm xúc buồn vui nhưng quan trọng hơn
cả là tình người không biên giới.
Đoàn sinh viên trước cửa Ải Vân
Ở miền Trung, kể từ khi đường hầm Hải Vân đưa vào hoạt động đã giảm hẳn tai
nạn giao thông trên đèo và biến đường đèo này thành một địa điểm du lịch. Người
ta lại bắt đầu chú ý đến hai đường đèo đi qua tỉnh Thừa Thiên - Huế, đó là
Phước Tượng và Phú Gia.
Hầu như tài xế nào khi đi qua đây đều “ngán” với độ dốc và cua tay áo của
các đèo này. Đã có những tài xế do không quen địa hình, do bất cẩn, phản ứng
không kịp khi gặp chướng ngại vật và phải trả giá bằng những vụ lật xe. Khi lên
đèo, những chiếc xe chở nặng nếu tụt dốc có thể rơi xuống vực sâu khoảng 30 mét
trên đèo Phú Gia.
Đèo Phú Gia
Đèo Phước Tượng cũng là nỗi ám ảnh đối với người điều khiển xe tải, xe
container và xe chở khách. Điều đáng nói các vụ tai nạn xảy ra trên đèo đều ở tại
những khúc cua gắt dù ngành giao thông đã xây dựng hệ thống lan can bảo vệ bằng
bê tông nhưng móng lan can thiếu kiên cố nên dễ dàng bị ôtô húc đổ khi xảy ra
va chạm.
Tai nạn trên đèo Phước Tượng
Rời cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự, chúng tôi tiến dần ra
phía Bắc, vẫn theo Quốc lộ 1A, để qua một ngọn đèo nổi tiếng qua thi ca từ ngày
tôi còn mài đũng quần trên ghế nhà trường. Từ vua Lê Thánh Tông, Cao Bá Quát,
Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thì Nhậm cho đến Bà huyện Thanh Quan đều có những vần thơ
ca tụng ngọn đèo:
Bước
tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ
cây chen đá, lá chen hoa
Lom
khom dưới núi tiều vài chú
Lác
đác bên sông chợ mấy nhà.
Thưở học trò hầu như ai cũng thuộc bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan.
Khi đó còn ngồi trong 4 bức tường của lớp học tôi đã để trí tưởng tượng được
đến vùng đất xa xôi Quảng Bình – Hà Tĩnh để chiêm ngưỡng bức tranh thủy mạc mà
bà huyện đã vẽ cảnh Đèo Ngang. Thật tình mà nói, lần đầu tiên qua Đèo Ngang cảm
giác giữa mộng và thực khác nhau quá xa…
Đèo Ngang cũng chỉ như các ngọn đèo khác với độ dài 6 km,
cao khoảng 250 m, xuyên qua dãy Hoành Sơn là ranh giới giữa huyện Quảng Trạch
thuộc tỉnh Quảng Bình ở phía Nam và huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, phía Bắc. Thời nay
làm gì còn có cảnh những chú tiều phu lom khom đốn củi dưới núi, bên bờ sông
Gianh cũng không phải chỉ là mấy nhà nằm lác đác quanh chợ.
Đèo Ngang xưa kia đây là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm
Thành, đến thời Pháp thuộc mang tên Porte
d'Annam trên bản đồ. Với người xưa, đây là vùng đất hiểm yếu, từng được
mệnh danh là “bức tường thành”, là “phên dậu” phía Nam của nước Đại Việt. Ngày
nay, trên đỉnh đèo Ngang, cửa quan lớn mang tên “Hoành Sơn quan” (xây dựng dưới
triều vua Minh Mạng) vẫn còn nguyên vẹn cùng hai bức tường đá lớn chạy theo hai
hướng: vào núi và xuống biển.
Năm 1833, vua Minh Mạng cho xây dựng “Hoành Sơn Quan” ở đỉnh
Đèo Ngang và cho khắc hình vào Cửu Đỉnh (Huyền Đỉnh). Hoành Sơn Quan cao hơn
4m, hai bên có thành dài hơn 30 m, trên cửa thành đắp nổi ba chữ “Hoành Sơn
Quan”. Hai phía Bắc - Nam
của Hoành Sơn Quan có đường dẫn là các bực thang. Hoành Sơn Quan vẫn còn, tuy
không nguyên vẹn nhưng vẫn sừng sững, uy nghi, phong trần nơi đầu núi hướng ra
biển, là chứng tích của một thời kỳ lịch sử.
Đứng trên đỉnh đèo Ngang nhìn về phía Đông ta sẽ thấy màu
xanh bao la của biển. Xa xa là Mũi Ròn, Vũng Chùa, Hòn La và hàng loạt đảo nhỏ,
lô nhô trên sóng nước. Nhìn về phía rừng là vách núi chênh vênh bên cạnh những
đồi nhỏ nhấp nhô. Thấp thoáng sau hàng dừa, rặng phi lao là những mái ngói đỏ
tươi, mái rạ sẫm màu của những làng chài, xóm núi.
Đèo Ngang
Gần đèo Ngang về phía Quảng Bình có đền thờ Thánh Mẫu Liễu
Hạnh. Đây là một trong những di tích kiến trúc - nghệ thuật - tôn giáo thờ Mẫu
tiêu biểu của Việt Nam .
Ngoài ra, khu vực đèo Ngang còn có các bãi tắm như Hòn La, Quảng Đông, Cảnh
Dương với những rừng dương xanh, bãi cát vàng. Các đảo ở ngoài khơi như đảo Hòn
La, Hòn Vụng Chùa, Hòn Cỏ, Hòn Gió, đảo Yến ... là những thắng cảnh thu hút
nhiều du khách
Đảo Hòn La và Đèo Ngang đã hợp thành một quần thể thắng cảnh
thiên nhiên tuyệt mỹ. Một bên là núi đèo nhấp nhô, một bên là những bãi biển
sạch, đẹp trải dài thoai thoải. Nơi đây
đã được quy hoạch thành khu du lịch Đèo Ngang-Hòn La nằm ở phía Bắc Quảng Bình
với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng.
Dưới chân đèo phía Bắc xưa kia là cửa biển Xích Mộ. Nay cửa
biển đã bị bồi lấp. Ngược lên phía Tây, dưới chân đèo là một hồ nước trong xanh
khá rộng. Ngược về phía Bắc đèo khoảng 3 km là Đèo Con, lại một cái tên bình dị
với vỏn vẹn một chữ trong số những ngọn đèo mà chúng tôi đã đi qua như Đèo
Chuối, Đèo Cả, Đèo Ngang…
Tuy thấp hơn đèo Ngang nhưng vị trí nơi đây thật đẹp vì nằm
sát ngay bãi biển Đá Nhảy với một bãi đá lớn từ núi ăn lan ra biển, nhấp nhô
với nhiều hình dạng khác nhau. Gần bãi tắm Đèo Con là đền thờ bà Bích Châu (hay
còn gọi là đền thờ Bà Hải). Núi Cao Vọng, cùng với núi Ô Tôn, núi Bàn Độ, Vũng
Áng đã tạo thành một quần thể du lịch Bắc đèo Ngang.
Đèo Con
(Còn tiếp)
***
Chú thích:
[1] Vụ thảm sát Mỹ Lai (Sơn Mỹ) là một trong những biến cố
đẫm máu trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam . Vào ngày 16/3/1968 tại khu vực
thôn Mỹ Lai thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, các đơn vị lính
Lục quân Hoa Kỳ đã thảm sát hàng loạt 504 dân thường, trong đó phần lớn là phụ
nữ và trẻ em.
Vụ việc đã bị che giấu cho tới cuối năm 1969 và ngoại trừ
một chỉ huy cấp trung đội thì không có bất cứ sĩ quan hay binh lính Hoa Kỳ nào
bị kết tội sau vụ thảm sát này. Đại đội Charlie thuộc Tiểu đoàn số 1, Trung
đoàn bộ binh số 20, Lữ đoàn bộ binh số 11, Sư đoàn bộ binh số 23, Lục quân Hoa
Kỳ, tới Nam Việt Nam tháng 12/1967.
Đại đội Charlie đổ bộ vào làng Sơn Mỹ. Trung đội của thiếu
úy William Calley bắt đầu xả súng vào các “địa điểm tình nghi có đối phương”,
những người dân thường đầu tiên bị giết chết hoặc bị thương bởi các loạt đạn này.
Sau đó lính Mỹ bắt đầu hủy diệt tất cả những gì chuyển động, người, gia súc,
gia cầm...
Trong tiếng Anh, vụ thảm sát này có tên My Lai Massacre, Son My
Massacre hoặc Pinkville, trong đó
Pinkville là địa danh của quân đội Hoa Kỳ đặt cho khu vực Mỹ Lai. Sự kiện thảm
khốc này đã gây sốc cho dư luận Mỹ, Việt Nam và thế giới, hâm nóng phong trào
phản chiến và là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự triệt thoái của quân
đội Hoa Kỳ khỏi Việt Nam năm 1972.
Ngày 19/8/2009, trong bài phát biểu tại Kiwanis Club,
Greater Columbus, lần đầu tiên William L. Calley công khai lên tiếng xin lỗi
nạn nhân. Ông nói: “Không một ngày nào
trôi qua mà tôi không cảm thấy hối hận vì những gì đã xảy ra ngày hôm đó tại Mỹ
Lai”.
Ngày nay, tại Sơn Mỹ có một trung tâm tư liệu: Khu chứng
tích Sơn Mỹ. Bên cạnh làng cũ là 2 tòa nhà: 1 trường học và 1 trung tâm văn
hóa, được xây dựng và tài trợ bởi cựu quân nhân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam .
[2] Tham khảo: Mme Mir & L. Cadière, “Les européens qui ont vu le vieux Huế:
Thomas Bowyear”, 1920, trang 194.
[3] Tham khảo về đoàn sinh viên Mỹ School for International
Training (SIT) tại Việt Nam
qua bài viết Chuyện một người Mỹ thích…
mắm tôm trên Blogspot:
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 8: Thời mở cửa)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến
ngày xuống lỗ)!