Gần
đây trên cộng đồng mạng dấy lên phong trào đòi lại đất “quốc phòng” cho phi trường
Tân Sơn Nhất. Bài viết này không bàn về chuyện đất đai có vẻ “nhạy cảm” về
chính trị mà chỉ nói đến chuyện ngôn ngữ trong tiếng Việt.
Vấn
đề đặt ra là “Tân Sơn Nhứt” hay “Tân Sơn Nhất”? Nhiều hình xưa cho thấy tên gọi
“Tân Sơn Nhứt” thuộc dòng “chính chủ”, được sử dụng một cách chính thức và được
coi là “trademark” của phi trường lớn nhất miền Nam. Đó là điều không thể chối
cãi với những chi tiết lịch sử.
Phi
trường được xây dựng vào năm 1930 ở làng Tân Sơn Nhứt, thuộc quận Gò Vấp, tỉnh
Gia Định. Chuyến bay đầu tiên từ Paris đến Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhứt là
vào năm 1933, chuyến bay này kéo dài 18 ngày. Năm 1956 Mỹ cho xây dựng phi trường
rộng hơn, dài hơn 3000 m, bằng bê tông. Trong khi đó sân bay do Pháp xây dựng
năm xưa dài hơn 1500 m, bằng đất đỏ. Tuy nhiên tính theo diện tích thì phi trường
vào năm 2016 chỉ còn 1/4 đến 1/5 so với phi trường Tân Sơn Nhứt năm 1975.
Phi trường Tân Sơn Nhứt thời Pháp thuộc
Tại
sao lại có tên “Phi trường Tân Sơn Nhất”?
Mặc
dù không được chính thức đổi tên bằng bất kỳ một văn bản nào của chính phủ VNCH
nhưng, theo tôi, “Tân Sơn Nhứt” đã được nhiều người gọi là “Tân Sơn Nhất” kể từ
sau cuộc di cư của hơn 1 triệu người miền Bắc vào Nam năm 1954, khi Hiệp định
Genève được ký kết, chia đôi nước Việt Nam thành hai quốc gia.
Đó
là “hiện tượng ngôn ngữ” chứ không phải
là một thay đổi mang màu sắc chính trị. Người di cư miền Bắc vào Nam khi đó
không quen với cách gọi “Nhứt” nên đổi sang “Nhất” và lâu ngày trở thành thói
quen được cả người Nam lẫn Bắc chấp nhận.
Cổng Phi Long của Không quân trong Phi trường TSN năm
1961
Tôi
là người từ Hà Nội vào Nam năm 1953, trước cuộc di cư năm 1954 của số đông người
miền Bắc. Những ngày đầu tiên vào Đà Lạt tôi có dịp khám phá những chuyện thật
trẻ con về vấn đề ngôn ngữ.
Chúng
tôi chơi trốn tìm, tôi đinh ninh là bạn mình trốn sau cánh cửa nhưng cu cậu
(người miền Nam) lại xuất hiện sau tấm màn đỏ và reo lêu: “Lêu lêu mắc cở”. Người Bắc không có chữ “mắc cở” nên tôi suy luận: “mắc
cở” là... cái màn cửa màu đỏ.
Có
thể gọi đó là “cultural shock” ở mức độ trẻ con khi có sự khác biệt về ngôn ngữ
giữa hai miền Nam-Bắc. Người miền Bắc nói “Nhặt
hộ tôi qủa bóng” nhưng người miền Nam dùng những từ khác hoàn toàn để diễn
tả cùng ý nghĩa: “Lượm giùm qua trái
banh”.
Ở
trong Nam, bạn bè cùng lớp gọi nhau bằng “trò”, sau này tiếng trò được thay bằng
“bạn”. Ở trường, học sinh người Bắc gọi cây
“bút” nhưng ở miền Nam lại gọi là cây
“viết” và “cục tẩy” được thay bằng
“cục gôm” tại miền Nam, v.v...
Những
người Bắc mới di cư vào Nam thường có khuynh hướng bắt chiếc sử dụng những từ
và cách phát âm của miền Nam, chẳng hạn như hột vịt đọc thành hột ‘dzịt’, đôi vớ (tất) thành đôi ‘dzớ’. Quả thật nghe rất… chướng tai!
Bảng chào mừng của căn cứ Không quân TSN năm 1967
Hiện
tượng này cũng xảy ra sau năm 1975, số người miền Bắc nhập cư miền Nam ngày
càng đông và người ta thấy những trường hợp người Bắc cố sửa giọng Nam để hòa
nhập. Tại sao người ta không giữ giọng điệu của địa phương mình khi đến một địa
phương khác? Để thích nghi hay sợ kỳ thị?
Đối
với những học sinh di cư từ Bắc vào Nam như tôi cũng không phải là ngọai lệ. Đó
là vấn đề thích nghi. Tôi cố theo lối phát âm miền Nam khi ở trường vui chơi với
bạn bè nhưng khi về đến nhà tôi lại giữ nguyên giọng Bắc. Cho đến bây giờ tôi vẫn
giữ giọng Bắc khiến nhiều người vẫn tưởng tôi là “Bắc kỳ 75” chứ không ngờ là “Bắc
kỳ 54”!
Dù
sao đi nữa, tôi vẫn hãnh diện là Bắc kỳ 54, có người còn gọi là Bắc kỳ 9 nút
(5+4=9 nút) để phân biệt với Bắc kỳ 2 nút (7+5=2 nút). Tôi hoàn toàn không thấy
sự kỳ thị khi được “dán nhãn” là “Bắc kỳ 54”!
Hình ảnh phi trường TSN năm 1967
Không
biết một thi sĩ nghiệp dư nào đó làm cả một bài thơ nói về sự khác biệt về từ
ngữ giữa hai miền Nam-Bắc:
“Bắc
bảo kỳ, Nam kêu cọ
Bắc
gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc
mang thai, Nam có chửa
Nam
xẻ nửa, Bắc bổ đôi
Ôi!
Bắc quở gầy, Nam than ốm
Bắc
cáo ốm, Nam khai bịnh
Bắc
định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam
mần sơ sơ, Bắc làm lấy lệ
Bắc
lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam
bắc vạc tre, Bắc kê lều chõng
Bắc
nói trổng thế thôi, Nam bâng quơ vậy đó
Bắc
đan cái rọ, Nam làm giỏ tre,
Nam
không nghe nói dai, Bắc chẳng mê lải nhải
Nam
cãi bai bải, Bắc lý sự ào ào
Bắc
vào ô tô, Nam vô xế hộp
Hồi
hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
Khi
nắng Nam mở dù, Bắc lại xoè ô
Điên
rồ Nam đi trốn, nguy khốn Bắc lánh mặt
Chưa
chắc Nam nhắc từ từ, Bắc khuyên gượm lại
Bắc
là quá dại, Nam thì ngu ghê
Nam
sợ ghê, Bắc hãi quá
Nam
thưa tía má, Bắc bẩm thầy u
Nam
nhủ ưng ghê, Bắc mê hài lòng
Nam
chối lòng vòng, Bắc bảo dối quanh
Nhanh
nhanh Nam bẻ bắp, hấp tấp Bắc vặt ngô
Bắc
thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam
rờ bông bụp, Bắc vuốt tường vi
Nam
nói: Mầy đi! Bắc hô: Cút xéo!
Bắc
bảo: cứ véo, Nam: ngắt nó đi.
Bắc
gửi phong bì, bao thơ Nam gởi
Nam
kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn
Bắc
gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc
hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa
đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc
khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc
nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó
Bắc
vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam:
“Ăn đi chú”, Bắc: “Mời anh xơi”
Bắc
mới tập bơi, Nam thời học lội
Bắc
đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui
thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam
thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi
Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy
Bắc
quậy sướng phê, Nam rên đã quá
Bắc
khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc
nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam
ít khi điệu, Bắc hay làm dáng
“Tán
mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu
là xạo
Bắc
nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam
mê phiếm, Bắc thích đùa
Bắc
vua bia bọt, Nam chúa la-de
Bắc
khoe “bùi bùi lạc rang”, Nam “thơm thơm đậu phọng”
Bắc
xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
“Khi
khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len
lén ăn vèn
Nam
toe toét “hổng chịu đèn“, Bắc vặn
mình “em chả”
Bắc
giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia”
Nam
mỉa “tên cà chua“, Bắc rủa “đồ phải gió”
Nam
nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc
vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Đến
khi Nam địt, Bắc hô đánh rắm
Khi
tắm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam
bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam
lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
Bắc
xuýt xoa: “Cái Lan xinh cực!”
Nam
trầm trồ: “Con Lan đẹp hết chê!”
Phủ
phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình
Nam duyên Bắc có thế mới bền, mới lâu!
Phi trường TSN năm 1970
Trở
lại vấn đề “Nhứt” hay “Nhất” chúng ta có rất nhiều trường hợp khác biệt về ngôn
ngữ để chứng minh: người Bắc đặt tên con là Chính (như trường hợp của tôi)
nhưng nếu sinh trưởng trong một gia đình miền Nam, chắc chắn tên tôi sẽ là
“Chánh”!
Ngày
xưa, họ “Hoàng” chỉ có ở miền Bắc và họ “Huỳnh” chỉ có ở trong Nam. Cũng có
thay đổi tương tự đối với họ “Vũ” và
“Võ” khiến ta chỉ cần nhìn vào cái tên cũng có thể đoán được xuất xứ. Ngày nay
sự phân biệt đó hầu như không còn được chú ý đến nữa.
Phi trường TSN trước 1975
Thế
cho nên, “Tân Sơn Nhứt” hay “Tân Sơn Nhất” chỉ là cách gọi theo vùng miền từ thời
VNCH chứ không phải từ sau 1975. Bằng chứng là tôi (năm nay đã ngoài 70) chưa một
lần nói “Tân Sơn Nhứt” và những bạn gốc từ miền Nam cũng dùng “Tân Sơn Nhất”
trong ngôn ngữ hàng ngày.
Xin nhắc lại, dùng “Nhứt” hay “Nhất” không phải là “sự kỳ thị chính trị” mà xuất
phát từ sự
khác biệt về ngôn ngữ vùng miền. Đó là điều tôi muốn nói trong trường hợp “Tân
Sơn Nhứt - Tân Sơn Nhất”.
Hành khách lên Air Vietnam tại TSN trước 1975
***