Nhiều người cứ nghĩ ca sĩ Từ Dung lấy họ Từ để đặt tên cho
mình khi hát cùng nhạc sĩ Từ Công Phụng hồi thập niên 60-70. Cặp song ca này đã
có một thời là vợ chồng và được giới trẻ hâm mộ. Họ đã có thời gian gần 10 năm
gắn bó với nhau cho đến khi hai người… “lặng lẽ chia tay”.
Theo tiết lộ của Từ Dung trong bài viết nhan đề “Mẹ tôi”
đăng trên Diễn đàn Thế kỷ, cô khẳng định:
“Ba tôi gởi thư về dặn mẹ nếu là con gái thì đặt
tên Từ Dung, con trai thì Duy hoặc Giản. Như vậy Từ Dung là tên cúng
cơm của tôi chứ không phải tên hát xướng đặt theo một nhân vật khác!
Từ Dung có nghĩa là hình Dung giống mẹ, vì ba tôi lúc nào cũng
tưởng nhớ mẹ tôi”.
Mời các bạn đọc bài viết về mẹ của Từ Dung, bà là phu nhân
của nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) trong nhóm Tự lực Văn đoàn của nhà
văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam). Nhất Linh là anh cả, kế đến là Hoàng Đạo và
nhà văn Thạch Lam là em trong một gia đình văn chương nổi tiếng thời xưa.
Tham khảo thêm: “Từ Dung & Từ Công Phụng: chuyện tình…
bí ẩn”
chinhhoiuc.blogspot.com/2019/04/tu-dung-tu-cong-phung-chuyen-tinh-bi-an.html
***
Mẹ tôi
Bà Hoàng Đạo
Tôi không biết phải bắt đầu ra
sao khi viết về mẹ tôi, vì có rất nhiều điều để nói. Cũng có thể
dưới con mắt chủ quan, tôi nghĩ bà là một trong những người phụ nữ
phương Đông tuyệt vời nhất trên cõi đời này. Người mẹ dịu hiền mà
tôi được may mắn biết đến, với đầy đủ những đức tính về công, dung,
ngôn, hạnh của một người đàn bà Á Đông, đã hy sinh cả một cuộc đời
mình cho chồng, cho con và cho những nghĩa cử từ thiện ngoài xã hội
với nụ cười luôn trên môi cùng chiếc răng khểnh duyên dáng.
CÔNG, DUNG, NGÔN, HẠNH
Về mặt dung nhan, vẻ đẹp dịu
dàng và đằm thắm của mẹ tôi đã hơn một lần làm rung động những
người phái nam có địa vị quan trọng trong nhiều lãnh vực xã hội. Bà
cao dong dỏng, thân hình đều đặn thanh tú, nước da mịn màng trắng
trẻo, dáng đi yểu điệu và uyển chuyển, khuôn mặt trái soan, cặp mắt
hơi hiếng (lé kim), mơ màng nhưng sâu sắc, miệng cười duyên dáng với
chiếc răng khểnh và cặp môi đầy đặn. Tôi có đọc vài cuốn sách viết
về mẹ tôi với những lời mô tả thiên lệch bắt nguồn từ những ghen
ghét nhỏ mọn. Những người viết này cố tình hạ thấp dung nhan, phẩm
hạnh của bà vì đố kị nên những người từng được tiếp xúc với bà vô
cùng bất mãn vì những dối trá trắng trợn đó. Theo ý một số những
người có dịp tiếp xúc với bà, bà là một trong những người đẹp và
hợp thời trang nhất tại Hà Nội vào những thập niên 1930-40. Ngay cả
về sau, khi đã trên bốn mươi tuổi và có bốn người con lớn, bà vẫn
là một phụ nữ có vẻ đẹp sang trọng và thanh lịch có tiếng ở Sài
Gòn.
Tôi còn nhớ, trong lúc ở giá
để nuôi các con ăn học thành tài, mẹ tôi đã từ chối khéo léo và
khiêm nhượng những người đàn ông theo đuổi bà và về sau họ vẫn quý
mến và nể phục tư cách của mẹ tôi. Một trong những người này đã qua
đời đã giữ lòng thương quý mẹ tôi ngay cả khi bà đã tạ thế. Khi
ra đi nước ngoài, ông gửi thơ về nhờ tôi đặt lên mộ mẹ tôi một bó
hồng đỏ thắm mỗi tuần lễ, như ông vẫn thường làm trước khi ra đi!
Mẹ tôi đã từ chối tất cả
những người đàn ông đến sau, vì trong trái tim của bà chỉ có hình
bóng của một người yêu duy nhất, đó là ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn
Tường Long.
Về công, tức là tài năng khéo
léo, ít có người phụ nữ nào có tài nấu nướng những món ăn Việt
cũng như Pháp tuyệt xảo như mẹ tôi. Nào canh bóng, vây, bào ngư, nấm
nhồi giò, chả nem rán, bánh chưng gói, món Tây thì súp legume, bò
hầm đậu, cua phá xi...
Các ngày giỗ chạp, tiệc rượu
linh đình, một mặt mẹ tôi nấu ăn và chỉ dẫn cho người giúp việc,
một mặt tiếp đãi khách với nụ cười hiền thục trên môi. Ai cũng phải
mến yêu bà. Chị Thu tôi đã lớn thì giúp một tay, còn tôi bé út nhất
nhà (cách anh Lân đến 9 tuổi) chỉ chạy chơi và chực ăn trứng luộc
trên bàn thờ!
Sau này mẹ tôi mở tiệm Chả Cá
Thăng Long (1959) ở đầu đường Phan Thanh Giản. Tiệm rất đắt khách và
là một trong những tiệm ăn sang trọng thanh lịch và ngon lành tinh
khiết nhất Sài Gòn lúc bấy giờ.
Về ngôn, khoa ăn nói, mẹ tôi ăn
nói nhã nhặn, điềm đạm và nhu thuận, lúc nào cũng giữ vẻ bình
tĩnh. Bà cũng dạy các con phải ăn nói đàng hoàng. Ngoài phái nam ra,
phái nữ cũng thương mến bà, bạn bè và các bà cô, dì hai bên họ đều
tìm đến bà khi hoạn nạn, nhưng cũng có một số nhỏ đem lòng ganh tị
và tìm cách bôi nhọ thanh danh bà.
Về phẩm hạnh, không ai có thể
chối cãi rằng mẹ tôi là một phụ nữ đảm đang, hy sinh cả cuộc đời
cho chồng, cho con mà không hề phàn nàn, than vãn.
THỜI THƠ ẤU CỦA MẸ
TÔI BA MẸ TÔI GẶP GỠ NHAU
Sinh ra trong một gia đình
quý phái, trưởng giả, mẹ tôi lại có những đức tính đơn giản, tốt
bụng hay thương người. Ông ngoại tôi làm tham tá công chánh dưới thời
Pháp thuộc, bà ngoại tôi là một mệnh phụ đài các nhưng khôn ngoan,
biết quản lý tài sản của ông tôi, biết tiết kiệm. Mẹ tôi lại là con
một nên được lo toan rất chu đáo, quá chu đáo đến nỗi mẹ tôi cảm
thấy ngộp thở. Bà ngoại tôi tính tình độc đoán, muốn chồng con phải
phục tùng theo cách sinh hoạt của bà. Thậm chí mẹ tôi chỉ được
quyền chơi những đồ chơi bà ngoại cho phép. Mẹ tôi kể lại rằng một
lần ông ngoại lén cho mẹ một con búp bê mà mẹ tôi thích, khi
bà ngoại biết được, bà lập tức vứt đi. Mẹ tôi khóc và nhớ mãi
chuyện ấy. Bà ngoại rất yêu mẹ tôi, nhưng cụ vẫn giữ tính khắc
nghiệt đó nên có những đụng chạm cãi vã không thể tránh được giữa
hai mẹ con.
Khi ba mẹ tôi gặp gỡ nhau, họ
bị tiếng sét ái tình đánh choáng váng. Một bên cảm vì sắc, một bên
mến vì tài. Ba tôi tuy ít nói, nhưng có lối châm biếm khôi hài thật
duyên dáng và sâu sắc đã chinh phục được trái tim trong trắng của mẹ
tôi. Tính cách khôi hài này được thể hiện trong tập “Trước vành móng
ngựa”. Mối tình của ba mẹ tôi là nguồn hứng khởi của mối tình của
Duy và Thơ trong “Con đường sáng”. Là một phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm
và chịu ảnh hưởng phong trào văn hóa mới vì mẹ tôi theo học trường
Pháp và tốt nghiệp trường Pháp, bà thông cảm và hỗ trợ chí hướng
phi thường của ba tôi, người đã từ chối chức tri huyện khi tốt nghiệp
cử nhân luật, sau lại bỏ chức biện lý vì chống lại tòa án Pháp
thuộc ngày đó. Điều này thể hiện trong tác phẩm “Trước vành móng
ngựa”.
Phải là một phụ nữ phi thường
mới thấu hiểu và tôn trọng một tâm hồn phi thường như ba tôi, và mới
hy sinh tuổi xuân sắc để giúp đỡ chồng một cách đắc lực trong quá
trình tranh đấu cho dân tộc và đất nước.
Lần đầu khi đi xem mắt mẹ tôi
tại tòa biệt thự của bà ngoại tôi ở bãi biển Sầm Sơn, ba tôi đã bị
tiếng sét ái tình. Mối tình đẹp như thơ đó đã bị cả hai bên gia đình
phản đối, bên nội vì lý do bà nội tôi không chuộng gia đình trưởng
giả, bên ngoại vì không cho là đủ môn đăng hộ đối. Nhưng ba mẹ tôi
đã vượt thắng tất cả để tìm đến nhau và lập gia đình!
MỘT CUỘC HÔN NHÂN ĐẦY HY SINH VÀ
CHIA LY
Chị cả tôi, chị Minh Thu, ra đời
năm 1934, là tác phẩm đầu tiên của sự kết hợp tuyệt vời đó. Năm kế
là anh Nguyễn Tường Ánh và cách một năm nữa là anh Nguyễn Lân. Ba mẹ
tôi những tưởng anh Lân là con út rồi vì lúc đó ba tôi rất ít khi ở
nhà, ông đã bị quay vào guồng máy thời cuộc lúc ấy. Khi ba tôi bị
bắt, bị tra tấn tại sở mật thám và sau bị đi đày ở Vụ Bản, Chân
Lạp Sơn, mẹ tôi rất lo buồn và đi lại tiếp tế nhiều lần. Tháng Tám,
1946, ba tôi cầm đầu phái đoàn hòa giải, trong đó có cả người của
Việt Nam Quốc Dân Đảng, của bên Việt Minh, và có nhân viên bộ Công
Chính là kỹ sư Đỗ Xuân Dung để xem tình hình nước lụt ở Việt Trì
(ngã ba sông Hồng Đào) và ba tôi bị bắt. Khi được thả ra, ba tôi sang
Trung Hoa gặp gỡ bác Nguyễn Tường Tam và các anh em khác. Thời gian
đó mẹ tôi thường xuyên mang vật phẩm và tiền bạc sang tiếp tế cho ba
tôi và các anh em khác. Ngoài ra, một tay bà lo dạy dỗ các con, chăm
sóc mẹ già và cũng một tay bà lo toan hỗ trợ người chồng cách
mạng lưu vong nơi xứ người. Phụ nữ như thế không phải ở thời đại nào
cũng có!
Ba mẹ tôi lúc ấy như Chức Nữ
Ngưu Lang, chẳng được thường xuyên gặp gỡ nên mỗi lần trùng phùng
thật quý giá vô cùng! Tôi là kết qủa của một trong những lần gặp
gỡ đó. Ba tôi gởi thư về dặn mẹ nếu là con gái thì đặt tên Từ Dung,
con trai thì Duy hoặc Giản. Như vậy Từ Dung là tên cúng cơm của tôi
chứ không phải tên hát xướng đặt theo một nhân vật khác! Từ Dung có
nghĩa là hình Dung giống mẹ, vì ba tôi lúc nào cũng tưởng nhớ mẹ
tôi.
Tôi ra đời ngày 30 tháng Mười
năm 1946 tại Hà Nội trong tình thương yêu của cả nhà. Ba tôi vẫn ở
biền biệt bên Trung Hoa nên chẳng thấy mặt tôi, chỉ nhận được tin tức
qua thư tín gia đình.
Lần gặp gỡ cuối cùng của ba
mẹ tôi năm 1948 tại Hongkong rồi sau đó ba tôi bị một cơn đau tim tạ
thế trên đường đi xe lửa về Quảng Châu, lúc đó tôi được 19 tháng.
Được tin sét đánh, mẹ tôi phải lo tiền bạc quay trở lại chôn cất ba
tôi tại Quảng Châu. Hiện nay không còn biết mộ phần nằm đâu nữa
vì các nấm mồ đều bị khai quật dưới chế độ Cộng Sản!
Kể từ đó, mẹ tôi ở vậy nuôi
con cho đến khi các con khôn lớn. Bố con tôi chỉ biết nhau qua hình ảnh
thư từ. Tôi được nghe kể lại về ba tôi qua lời nói của mẹ, của anh
chị và của cậu tôi, Như Phong Lê Văn Tiến.
Tôi nghĩ rằng tôi được thừa
hưởng óc khôi hài châm biếm của ba tôi, cũng như dòng máu văn chương
chảy cuồn cuộn trong tim óc!
Tại Hà Nội, gia đình tôi sống
tại đường Lý Thái Tổ, Hàng Vôi. Trường Hàng Vôi là ngôi trường đầu
tiên trên con đường học vấn của tôi. Năm 1990, trước khi rời Việt Nam, tôi
ghé thăm ngôi nhà gia đình và ngôi trường thơ ấu. Ngôi nhà xinh đẹp hai
tầng có cây bàng trước sân giờ đây ngăn ra cho tám hộ ở, phòng ngăn
bằng vải rideau. Bàn thờ tổ tiên vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ còn
một ông lão còn nhớ về nguồn gốc căn nhà.
Trở lại năm 1954, chúng tôi rời
căn nhà thân yêu lên đường vào Nam trên một chiếc phi cơ quân đội. Tôi
mới có 8 tuổi nên chỉ nhớ là mẹ tôi vội trở lại miền Bắc để thanh
toán mấy căn nhà ở Hà Nội của bà tôi và gom tiền bạc để sinh sống
trong Nam. Lúc đó sắp sửa đóng cửa ra vào hai miền nên các anh chị,
tôi lo lắng sợ mẹ tôi bị kẹt lại Hà Nội.
Khi mẹ về, chúng tôi hết sức
mừng rỡ. Chúng tôi tạm ở chia với họ hàng bên ngoại một căn nhà
đường Đặng Dung, Tân Định. Đó là thời gian đẹp nhất của đời tôi! Mẹ
con, anh chị em đoàn tụ yêu mến nhau. Tôi ở tuổi bắt đầu ý thức được
tình cảm quý báu của gia đình. Ý nguyện của tôi là anh chị em tôi sẽ
trở lại quây quần như thời đó!
Khi đến học lớp Tư trường Huỳnh
Thị Ngà thì tôi gặp khó khăn với cô giáo Nam Kỳ với giọng đọc chính
tả mới lạ. Tôi có đến mười lỗi trong bài “Lạc vào rừng” vì
tôi không hiểu gì cả. Các bạn chế nhạo accent Bắc kỳ và gọi tôi
“Bắc kỳ ăn rau muống”. Đó là bài học đầu tiên của tôi về kỳ thị
địa phương dạy tôi sau này chống lại mọi thứ kỳ thị trên cõi đời
này!
ĐỜI SỐNG TẠI SAIGON
Cùng lúc ấy, mẹ tôi mở tiệm
phở và chả cá Thăng Long trên đường Trần Quang Khải, Tân Định, sau
chuyển về tiệm chả cá Thăng Long trên đường Phan Thanh Giản. Sau này
ngẫu nhiên quán cà phê nhạc Từ Dung của tôi mở năm 1978 cũng lại tọa
lạc trên con đường Trần Quang Khải và người hầu bàn trưởng tại chả
cá Thăng Long tên là anh Tư lại trở thành người pha cà phê chính của
quán Từ Dung.
Tiệm chả cá Thăng Long do họa
sĩ Nguyễn Gia Trí trang hoàng có một vẻ Á Đông trang nhã với những
chiếc cột đỏ, những tấm bình phong và hình vẽ đặc biệt Việt Nam
rất mỹ thuật. Một tấm tranh dân gian của Phạm Tăng treo dọc cả bức
tường trong căn phòng riêng của quán. Bức tranh này sau tôi bị một tay
văn sĩ hạng b, c gì đó lừa lấy mất!
Căn nhà mẹ tôi mua rộng lớn,
một bên mở tiệm, còn một bên gồm năm phòng để gia đình tôi ở. Tiệm
luôn đông khách tấp nập và các danh nhân, nghệ sĩ như Mặc Thu, Nguyễn
Hoạt, bác Nhất Linh, Chu Tử thường xuyên đến ăn chả cá. Thế nhưng vấn
đề tài chính không mấy khả quan vì mẹ tôi quá tốt bụng, luôn nuôi ăn
ở và trả lương cho 6,7 người giúp việc nên tiền vào tuy khá nhưng ra
cũng lắm. Mẹ tôi không bao giờ từ chối mở hầu bao giúp cho những
người đến cầu cứu gia đình tôi!
Lúc đó chị Minh Thu, anh Tường
Ánh lập gia đình nhưng lúc đầu anh Ánh vẫn ở chung với mẹ tôi. Các
anh chị có gia đình riêng nên không còn gần gũi nhau như xưa. Tôi cảm
thấy mẹ buồn nhưng không biết an ủi mẹ ra sao, chỉ biết rúc vào lòng
mẹ. Khi anh Ánh và vợ dọn đi ở riêng trong một căn nhà mẹ mua cho anh,
tôi được thừa hưởng căn phòng trống cạnh phòng anh Lân. Trước mặt hai
căn phòng là một sân cement nhỏ trồng vài cây cảnh như cây trúc đào,
cây mận sai trái vì tôi chôn xác con mèo dưới gốc cây.
Đằng sau phòng tôi là một cây
trứng cá trái mọng nước và rất ngọt. Căn phòng này đã ghi một ấn
tượng sâu đậm về thời thơ ấu của tôi sống êm đềm trong tay mẹ hiền.
Có phòng riêng rồi nhưng tôi vẫn đòi ngủ với mẹ để được hít mùi da
thịt của bà, thơm mùi nước hoa Guerlain và mùi phấn. Tôi cũng đòi mẹ
ngâm thơ Kiều hoặc hát quan họ cho nghe như lúc còn bé tí. Cũng vì
vậy mà tôi rất thuộc Kiều và những bài thơ ru em. Mẹ tôi yêu nhạc
Đông phương nhưng cũng mê nhạc cổ điển Tây phương, nên khi mẹ mất, gia
đình tôi mở nhạc Bach và Beethoven bên quan tài để hương hồn mẹ tôi về
thưởng thức, thay vì giọng ê a của các vị sư hay kinh của các cha cố!
Sau này mẹ tôi bắt đầu gặp khó
khăn về tài chính nên phải bán đi một số nữ trang. Lúc đó là đầu
thập niên 1960, quân đội Mỹ đổ sang Việt Nam nên mẹ tôi theo trào lưu
cũng dẹp tiệm chả cá và cho Mỹ thuê một bên nhà để mở nhà hàng có
âm nhạc tên là Kontiki. Đêm nào tôi cũng được nghe tiếng đàn hát vọng
sang từ bên nhà hàng của ban nhạc Đăng Tiến, thỉnh thoảng tôi cũng
sang hát chơi những bản như Autumn leaves, A very precious love, Mona
Lisa....
Tôi khoảng 16 tuổi, tuổi đầy
mộng đẹp và bắt đầu mơ đến tình yêu!
Mấy năm sau mẹ tôi bán căn nhà
rộng lớn đường Phan Thanh Giản và mua căn nhà nhỏ hơn có ba phòng ngủ
và một căn gác ở Ngã năm bình hòa đường Chu Văn An. Nhiều người ngăn
cản bà mua căn nhà này vì nó nằm cuối ngõ cụt và có mộ phần đằng
sau nhà nên theo địa lý rất xấu. Không biết có phải là mê tín
không mà sau này mẹ tôi bị ung thư nặng và chết tại nhà đó, bà
ngoại tôi cũng chết theo ở tuổi 98 vì quá đau đớn, mẹ tôi là con duy
nhất của cụ, cậu tôi Như Phong Lê văn Tiến bị bắt giam cũng ở
đó, gia đình vợ chồng tôi thì phân tán, chia ly. Năm Mậu Thân 1968 nơi
này là tử địa của tàn quân Việt Cộng, sau khi VC thất bại trong trận
tổng công kích Saigon đã rút lui về nơi đây. Ngôi nhà chúng tôi bị đạn
bắn từ máy bay xuống lỗ chỗ đầy những vết đạn, cũng may là khi cả khu
phố bốc cháy như một con rồng lửa thì bỗng dừng lại khi tới nhà
chúng tôi. Thật là một phép lạ!
Tôi giúp mẹ, bà ngoại và hai
mẹ con bác giúp việc chạy khỏi nhà, chân phải chạy lung tung tránh
xác VC nằm đầy ngõ và tránh tầm đạn của hai bên bắn nhau. Một ông
hỏi ông khác «ai đánh ai?», ông kia trả lời «quân mình đánh quân ta»!
Từ lúc đó mẹ tôi bị ung thư bên
cánh tay trái và căn bệnh kéo dài tới năm 1975 thì mẹ tôi mất.
Người y sĩ đã hết lòng chữa chạy cho mẹ là bác sĩ Trần Ngọc Ninh,
một người bạn thân của gia đình. Hai bác sĩ khác của gia đình tôi là
bác sĩ Phan Huy Quát và bác sĩ Kỳ Quan Thân.
Cánh tay xinh đẹp, nuột nà,
trắng bóc của mẹ tôi chỉ để đeo những nữ trang qúy giá nay
đã bị cắt đi đến hai lần, và sau cùng căn bệnh quái ác đã ăn
vào tủy sống làm mẹ hôn mê trong 24 tiếng đồng hồ trước khi từ gĩa
cõi đời. Trước khi bị hôn mê, căn bệnh ăn vào tủy làm bà thấy mọi
vật nhuộm muôn màu muôn sắc.
Không có gì diễn tả nổi nỗi
đau đớn của người mắc bệnh ung thư. Lầu 5 của viện ung thư ở Gia Định
phải rào lại vì nhiều người trong cơn đau đã nhảy xuống tự vận.
Trong khoảng cuối cùng của cuộc đời đầy hy sinh, chịu đựng, đau đớn,
bà vẫn tiếp tục làm phước, giúp người. Bà bảo trợ cho một số người
bị ung thư trong viện, trong số đó có một anh binh sĩ trẻ, đẹp trai
như Alain Delon. Anh bị ung thư xương chân, chỉ trong vài tháng là từ
trần. Mẹ tôi, lúc đó đã phải dùng tới codein cho bớt đau và bò lết
dưới đất rên la, cũng vẫn lo cho anh trong những ngày chót của cuộc
đời anh!
Tại sao một phụ nữ hiền hậu
như mẹ tôi và có lòng thương người lại phải chịu một số phận đớn
đau như vậy? Khi mẹ tôi chết đi, bà không bám víu vào một niềm tin tôn
giáo nào cả vì bà không tìm thấy đức tin nơi cuối đời. Lúc gần
chết, bà cảm thấy hoang mang...
Khi nhìn ngắm xác mẹ trong
chiếc áo trắng tôi mặc cho bà và cành hoa lan trắng trước ngực bà,
tôi mới ý thức được nỗi mất mát lớn lao đến thế nào. Đã quá muộn
để chiều chuộng mẹ, để nói rằng mẹ ơi con yêu mẹ, để cám ơn bà cho
tôi đời sống hôm nay và niềm tin ngày mai.
Có một con bướm trắng bay quanh
quan tài của mẹ nhiều lần trước khi hạ huyệt, có phải chăng linh hồn
mẹ muốn từ giã các con lần cuối?
Từ Dung xin thay mặt người quá
cố cũng như các anh chị gửi lời cám ơn anh Sơn con của cô Thế đã lo
việc rải tro xuống biển cho bà và mẹ chúng tôi tại Việt Nam để linh
hồn bà và mẹ chúng tôi được siêu thoát và xin Chuá ban phước lành
cho anh và gia đình anh.
Chấm hết
TỪ DUNG