Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014

Người Thượng xứ Ban Mê

“… Kinh – Thượng kết đoàn, trường Ban Mê Thuột ngày thêm tươi sáng…”
(Lời ‘Hiệu Đoàn Ca trường Trung học Ban Mê Thuột)


Đó là những lời ca “không-thể-nào-quên” của những ai đã từng mài đũng quần trên ghế trường Trung học Ban Mê Thuột trước ngày Sài Gòn thất thủ. Bài Hiệu Đoàn Ca và huy hiệu Con Voi là những nét đặc trưng không thể nhầm lẫn với bất cứ một trường nào tại Việt Nam!

Huy hiệu “đầu voi” của trường TH BMT
(Hình: Kỷ yếu THBMT trên Flickr)

Ban Mê Thuột là một thành phố nhỏ nhưng lại là nơi đã từng một thời mang dấu chân của những tên tuổi lớn như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đây chính là nơi ông ra đời chào đời năm 1939 tại xã Lạc Giao, nay đổi tên là phường Thống Nhất. Vào đầu thập niên 60, sau khi theo học tại trường Sư phạm Quy Nhơn ông đã lang thang lên Bảo Lộc và Ban Mê Thuột với nghề gõ đầu trẻ.  

Cố nhà văn Thế Uyên và cũng là nhà giáo Nguyễn Kim Dũng đã từng sống và dạy học tại ngôi trường Trung học Ban Mê Thuột. Khi đó tôi đang học lớp Đệ Tứ tại trường và giáo sư Nguyễn Kim Dũng đã tỏa sức thu hút đến lũ học trò chúng tôi qua một môn học xưa nay vẫn nổi tiếng là khô khan: Triết học [1].

Nhiều người Ban Mê Thuột vẫn còn nhớ, một kỳ bầu cử Quốc hội thời VNCH có hai người cùng tên Chi ra ứng cử, và đặc biệt hơn nữa, cả hai người đều hoạt động trong lãnh vực giáo dục. Một số học sinh chúng tôi đã hết lòng đi vận động cho thầy Bùi Dương Chi, giáo sư Anh văn, nhưng cuối cùng thì ‘đối thủ’ của thầy, cũng tên Chi thuộc ty Tiểu học, lại thắng thế. Thầy trò sau thất bại đó mới nhận ra ngay tại thị xã thầy Chi có số phiếu bầu rất cao nhưng tại các vùng buôn làng sự vận động lại yếu hơn. Âu đó cũng là một bài học. 

Một người bạn học với tôi cho đến năm Đệ Tứ tại trường Trung học Ban Mê Thuột, Mai Tiến Thành, cũng đã đi vào văn học miền Nam qua nhân vật học trò Nguyễn Duy Minh yêu cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm trong tiểu thuyết ‘Vòng tay học trò’ của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng [2].

Bạn cùng lớp với tôi có trường hợp của hai anh em Phạm Văn Quảng và Phạm Văn Thành học chung một lớp nhưng về sau tương lai của cả hai đi theo hai con đường khác nhau. Quảng chọn binh nghiệp qua con đường ‘sĩ quan hiện dịch’ Võ Bị Đà Lạt và đã nằm xuống lòng đất mẹ rất sớm trong khi người em tiếp tục chọn con đường du học và thành đạt vẻ vang với văn bằng Tiến sĩ (PhD) tại Canada. Thành được coi là tấm gương sáng và cũng là một trong những học sinh xuất sắc của trường Trung học Ban Mê Thuột.      

Theo trang web mới nhất của Trường Trung học Phổ thông Buôn Ma Thuột (http://thpt-buonmathuot-daklak.edu.vn/ ), nổi bật trong thế hệ học sinh đàn em sau này đã tốt nghiệp và thành đạt có thể kể đến Lê Đình Duy (khóa 1988 -1991) đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Công nghệ Thông tin tại Nhật Bản, hiện đang giảng dạy và nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Công nghệ Thông tin Quốc gia Nhật Bản. Ngoài ra còn có Ngô Minh Toàn (khoá 1994-1996), bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ Vật lý tại Ý, hiện đang làm việc tại Hoa Kỳ.

Trường  Trung học Ban Mê Thuột (nay là trường Trung học Phổ thông Buôn Ma Thuột) được thành lập từ năm 1955 từ việc hợp nhất giữa trường Y Yut (có từ thời Pháp thuộc, lúc đầu có tên là Collège Sabatier – dành riêng cho con em đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương do thầy Đỗ Đức Riệu làm Hiệu trưởng) và trường Trung học Nguyễn Trường Tộ (hình thành năm 1956, dành cho con em đồng bào người kinh đến Ban Mê Thuột lập nghiệp do thầy Đỗ Trọng Thạc làm Hiệu trưởng).

Khi mới thành lập, trường Trung học Nguyễn Trường Tộ chỉ có một lớp Đệ thất (tương đương với tên gọi Lớp 6 ngày nay) gồm 40 học sinh. Vì chưa có trường sở nên lớp học phải tạm thời đặt tại khách sạn bằng gỗ, thuê của bà Nicholas (người Pháp). Cũng vì thế nên còn gọi là trường Nicholas.

Niên học 1957-1958 đã có thêm một lớp Đệ thất mới và cũng thêm các giáo sư được bổ nhiệm để dạy cả hai trường Nguyễn Trường Tộ và Y Yút. Thầy Phạm Văn Đồng được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng chung cho cả hai trường với nhiệm vụ hợp nhất sách Kinh-Thượng để dạy Việt ngữ dưới một mái trường chung.

Đến đầu năm 1960 tên trường Trung học Ban Mê Thuột mới được sử dụng chính thức. Các thầy được bổ nhiệm Hiệu trưởng trong thời kỳ này là thầy Nguyễn Khoa Phước (1962-1963), thầy Nguyễn Khoa Tuấn (1964-1968). 

Trường Trung học Ban Mê Thuột trước 1975

Tuy nhiên, viết về Ban Mê Thuột mà không nói đến người Thượng tại Buôn Ma Thuột sẽ là một thiếu sót lớn vì Cao nguyên Trung phần vốn là vùng đất nguyên thủy của các nhóm sắc tộc bản địa như Ba Na, Jarai, Ê Đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông. Trong số các nhóm sắc tộc đó, người Ê Đê, hay còn gọi là Rađê, phần lớn sinh sống tại Ban Mê Thuột.

Tên của các danh nhân người Thượng cũng xuất hiện trên đường phố Ban Mê Thuột bên cạnh những tên người Việt. Những cái tên như Y Jút, Ama Trang Long được trịnh trọng đặt cho những con đường chính trong thị trấn bên cạnh các con đường Quang Trung, Lý Thường Kiệt, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thái Học…

Y Jút và Y Út là hai thầy giáo người Thượng đã sáng tạo ra chữ viết của người Thượng theo mẫu tự Latin vào khoảng những năm đầu thế kỷ 20. Ama Trang Long là tù trưởng người M’Nông đã nổi dậy chống Pháp trong suốt hơn 20 năm đầu thế kỷ 20.  Ở BMT có tên đường Ama Trang Long nhưng ông còn có những tên được phát âm là N'Trang Lơng hay Nơ Trang Long hoặc thuần Việt như Ma Trang Sơn.

Từ năm 1956, dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, trong chiến lược chống cộng của Tổng thống Ngô Đình Diệm, các cố vấn quân sự Mỹ vào tận các buôn làng người Thượng để trang bị vũ khí cho thanh niên, thành lập các đội Dân sự Chiến đấu Thượng (Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) phối hợp cùng Lực lượng Đặc biệt (Special Forces) Hoa Kỳ nổi tiếng với chiếc berret xanh.

Tướng Westmoreland với Lực lượng Đặc biệt & CIDG

Năm 1963, sau cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, tất cả những lãnh tụ phong trào của người Thượng Bajaraka bị nền Đệ nhất Cộng hòa giam giữ đều được trả tự do. Dưới thời Đệ nhị Cộng hòa, ông Y Bhăm Ênuôl, chủ tịch phong trào Bajaraka, được bổ nhiệm vào chức vụ Phó tỉnh trưởng tỉnh Đắc Lắc và ông Paul Nưr, phó chủ tịch Bajaraka, được bổ nhiệm vào chức vụ phó tỉnh trưởng tỉnh Kon Tum.

Tháng 3/1964, được sự ủng hộ của Mỹ, những người lãnh đạo phong trào Bajaraka kết hợp với sắc tộc Thượng khác và người Chàm tại miền Trung thành lập Mặt trận Giải phóng Cao nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux - FLHP).

Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức, còn gọi là FULRO, chữ tắt từ tiếng Pháp “Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées” là một tổ chức liên minh chính trị - quân sự của các sắc tộc Cao nguyên Trung phần gồm các dân tộc thiểu số Chàm, Khmer và Thượng tồn tại từ 1964 đến 1992. Tổ chức này chủ trương đấu tranh cho quyền tự quyết của các sắc tộc trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và kế tiếp là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.  

‘Người Thượng’ là danh từ gọi chung những nhóm sắc tộc bản địa sinh sống trên cao nguyên miền Trung Việt Nam. Tiếng Pháp dùng thuật ngữ ‘Montagnard’ vốn có nghĩa là ‘người miền núi’, trong khi đó ‘Degar’ là cách gọi có nguồn gốc dân tộc bản địa.

Xưa kia, người ta còn dùng chữ ‘Mọi’ một cách miệt thị để chỉ những dân tộc bán khai miền sơn cước. Ngay từ năm 1621, giáo sĩ Borri gọi chung những nhóm người Thượng bằng cái tên ‘Kemoy’ có nghĩa là ‘Kẻ Mọi’ và cũng kể từ đó trong tiếng Việt có tên ‘Mọi’ để chỉ người Thượng. Sau này lại có thêm một cái tên miệt thị là “Mọi cà răng, căng tai”

‘Thượng’ có nghĩa là ở trên, người Thượng là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống tại Miền Thượng, sau này được gọi là Tây Nguyên. Thế cho nên Người Thượng theo nghĩa rộng cũng có thể đề cập đến tất cả các dân tộc thiểu số ở miền Cao nguyên Trung phần nói chung. 

Người Thượng Ban Mê Thuột

Người Thượng theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế và đàn ông sống trong gia đình nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.

Người Rađê tính tình trung thực, chịu đựng gian khổ trong cuộc sống, chăm chỉ trong công việc. Cả người già lẫn người trẻ đều có bản tính hiền hòa, không thích ba hoa hay nói dối. Vì vậy, nếu ai nói dối, lừa gạt một người Rađê, dù chỉ một lần thôi, cũng đủ để mất hết lòng tin thậm chí dẫn đến hận thù dai dẳng.

Phần lớn người Rađê theo đạo Tin Lành được các nhà truyền giáo phương Tây truyền vào những năm đầu của thế kỷ 20. Đắc Lắc nơi tập trung đông người Rađê nhất cũng là nơi có tín đồ Tin Lành nhiều nhất Việt Nam, đây được coi một trong những trung tâm đạo Tin Lành lớn nhất khu vực Đông Dương.

Sau Hiệp định Genève, Tổng thống Diệm hủy bỏ quy chế Hoàng triều Cương thổ, chấm dứt đặc quyền của Quốc trưởng Bảo Đại trên vùng Cao nguyên và biến vùng đất này vào lãnh thổ chung của Quốc gia Việt Nam. Về mặt kinh tế có chính sách mở rộng đất đai canh tác và lập các khu dinh điền, định cư hàng trăm nghìn người Công Giáo từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954.

Một số được đưa lên vùng Cao Nguyên, họ chiếm đất của người Thượng để hình thành các khu dinh điền. Sự xuất hiện đột ngột của người Kinh, cùng với sự kỳ thị chủng tộc, mất đất đai, văn hóa bị xâm phạm, đã để lại vết đau trong tinh thần của người Rađê. Đó là sự lập lại của lịch sử như thời kỳ Nam tiến của các Chúa Nguyễn, chiếm đất của người Chàm, xóa sổ vương quốc Chiêm Thành ở miền Trung.

Ngày nay, còn khoảng 330.000 người Rađê cư trú tại tỉnh Đắc Lắc, phía nam của tỉnh Gia Lai và phía tây của hai tỉnh Khánh Hòa - Phú Yên. Tại một số quốc gia khác trên khắp thế giới, như Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu, cũng có một số người Rađê hiện sống lưu vong sau năm 1975.

Năm 1990, tại Nam Carolina, Hoa Kỳ, Quỹ Người Thượng (Montagnard Foundation, Inc.) được ông Ksor Kok thành lập với mục đích bảo vệ cuộc sống và văn hóa người Thượng ở Cao Nguyên Việt Nam. Đây là một tổ chức phi lợi nhuận tại hải ngoại nhằm giúp đỡ người Thượng ở trong nước thông qua các hoạt động xã hội.

Tháng 2/2000 hàng ngàn người Thượng tại Cao nguyên lại băng rừng vượt núi sang Campuchia lánh nạn. Họ được Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ở Campuchia cấp qui chế tị nạn. Đến tháng 6/2002, Hoa Kỳ cho phép gần 1000 người Thượng về định cư tại các thành phố Raleigh, Charlotte và Greensboro thuộc tiểu bang North Carolina. Đây là đợt định cư nhân đạo lớn nhất trong lịch sử tiếp nhận người tị nạn của North Carolina nói riêng.

Một cặp vợ chồng người Rađê

Dưới thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, Trường Trung học Ban Mê Thuột có Ký túc xá dành cho các con em người Thượng từ các buôn làng xa xôi về học cùng học sinh người Việt theo chương trình giáo dục của chính phủ. Không những vậy, con em các dân tộc thiểu số khác, như người Thái, người Mường, từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 cũng được tiếp nhận vào Ký túc xá.

Trong suốt thời gian học tại BMT vào thập niên 60 tôi đã có dịp tiếp xúc với một vài học sinh người Rađê thường mang họ “Y” nếu là nam sinh và họ “Hờ” (H’) nếu là nữ sinh tại trường. Học sinh người Thượng trong trường sống lặng lẽ trong Ký túc xá, họ rất ít khi tiếp xúc với đám học sinh người Việt có lẽ vì mặc cảm của dân tộc thiểu số.

Tôi còn nhớ mãi những kỷ niệm với các bạn học sinh Thượng cùng lớp như Y Tun, K’sor Híp, K’sor Lương… Thật ra thì họ rất cởi mở một khi bức tường ‘ngăn cách’ được xóa bỏ, kết bạn với họ tôi cảm thấy thoải mái vì tính thành thật cũng như cởi mở vốn có của người Thượng.    

Nói chung, nam nữ học sinh người Thượng vốn là thành phần được coi là ‘ưu tú’ của cộng đồng người thiểu số nhưng luôn luôn vẫn còn đó sự ‘ngăn cách’ giữa người Kinh và người Thượng. Sự tiếp xúc trong mối quan hệ học sinh Kinh-Thượng tại trường chỉ mang tính cách ‘xã giao’ dù nhà trường đã đề cao khẩu hiệu ‘kết đoàn’ như trong bài Hiệu Đoàn Ca đã được nói ở trên.

Thế mới biết, từ thực tế cuộc sống đến các khẩu hiệu được đề ra luôn có một khoảng cách. Người ta chỉ có thể trách cái ‘hố ngăn cách’ đó là kết quả của những năm dài khi những người Kinh đầu tiên lên Cao nguyên vốn là đất của người Thượng. Và đa số người Thượng luôn mang mặc cảm… vùng đất của họ đã bị người Kinh xâm lấn.

Người Thượng đóng khố trong cộng đồng người Kinh

Rất khó để tìm ra một trường hợp điển hình người Rađê thành công trong xã hội người Kinh ngay trên vùng đất Cao Nguyên của họ. Có lẽ trường hợp nhà sách Cao Trí trên đường Nguyễn Thái Học là điển hình duy nhất về thành công trong kinh doanh của người Thượng ở BMT.

Tôi còn nhớ mãi chủ nhà sách Cao Trí là một ông người Thượng với bộ mặt lầm lì, nước da ông ngăm ngăm đen và ông nói tiếng Việt lơ lớ giọng Huế. Ông chủ tiệm sách tên thật là Y Ti nhưng người ta quen gọi ông là Y Trí, có lẽ vì cái bảng hiệu Cao Trí.

Một người Thượng làm chủ một cửa hàng sách báo đã là một điều lạ nhưng còn lạ hơn nữa bà chủ lại là người Kinh, họ Lê, gốc Huế từ Đà Nẵng vào. Hai ông bà gặp nhau tại BMT và kết quả của mối lương duyên Kinh-Thượng là hai người thành gia thất và khi con cái ra đời, ông Y Trí vẫn theo tục lệ ‘mẫu hệ’ của người Thượng, các con đều mang họ mẹ.

Trên thực tế, đàn ông người Kinh kết hôn với phụ nữ người Thượng tại vùng Cao Nguyên xảy ra nhiều hơn nhưng trường hợp của ông Y Tri lấy một bà người Việt là rất hiếm. Người ta thường nói tình yêu ‘không biên giới’ là vậy!

Những người lớn tuổi thường kể vào thời Pháp thuộc người Việt bị hạn chế trong việc di dân lên Cao Nguyên, chỉ có một số ít người Kinh tới BMT mang theo muối, đường, vải sợi và cả kim băng để đổi lấy gạc nai, ngà voi, mật ong và thịt thú rừng đem về vùng đồng bằng.

Hồi đó người Thượng chưa biết đến tiền bạc, họ chỉ mua bán qua hình thức ‘trao đổi’ (barter) những cái họ có sẵn để lấy những thứ họ cần thiết. Trong những chuyến hàng ‘trao đổi’ như vậy, người Kinh luôn thu về mối lợi cho mình và người Thượng với bản tính hiền hòa, chất phác luôn là ‘mồi ngon’ cho những con buôn người Kinh.

Trong khi miền thượng du Bắc Việt có rượu Táo Mèo, người Thượng tại Cao nguyên Trung phần nổi tiếng với Rượu cần. Cách nấu rượu, tôi nghĩ, cũng gần như nhau nhưng cách uống tại xứ Thượng có phần khác lạ.

Rượu được chứa trong một cái chóe lớn, người uống không dùng ly mà thay vào đó là cái ‘cần’, một hình thức của ‘ống hút’, được nối giữa người thưởng thức rượu với chóe. Tôi nghĩ cái hay của rượu cần là việc không kiểm soát được ‘tửu lượng’ của người uống, do vậy người ta chỉ việc ‘ngậm’ cần mà không uống cũng chẳng ai biết. Tuy nhiên, việc nhiều người ‘ngậm’ cùng một cần là điều trái với vệ sinh thường thức. 

“Uống” rượu cần

Ngoài ngôn ngữ của các dân tộc người Thượng còn có chữ viết do các nhà truyền giáo Phương Tây ghi chép lại. Trên thực tế, chữ viết của người Thượng rất sơ khai và đó cũng là một trở ngại trong việc bảo tồn văn hóa của họ. Ngày xưa, rất nhiều người Kinh tại BMT cố học dăm ba tiếng Thượng để giao dịch, buôn bán.

Tiếng Thượng của người Rađê thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Polynesia rất gần gũi với ngôn ngữ của Mã Lai cũng như người Chàm. Chẳng hạn như cách đếm số, ta có số 1 là ‘sa’, tiếng Chàm cũng là ‘sa’, tiếng Mã Lai lại là ‘satu’. Với trường hợp số 2, cả ba ngôn ngữ đều là ‘đua’.

Có dạo gia đình tôi sống trên đường Ama Trang Long, đối diện với tiệm bán phụ tùng xe hơi Lê Đức Viên. Gia đình bà Viên có Lê Đức Dũng học dưới tôi vài lớp, mãi đến sau này tôi mới phát hiện một tài năng nói tiếng Thượng của Dũng.

Không những rành về tiếng Thượng mà khi phát âm Dũng có accent không thua gì người Thượng chính gốc. Trong một buổi gặp gỡ tại Sài Gòn sau năm 1975 Dũng còn sử dụng tiếng Thượng trong vai trò ‘thầy mo’ cúng ‘giàng’.

Dân tộc thiểu số trên Cao Nguyên dùng chữ ‘giàng’ (còn gọi là ‘Yàng’ hay ‘Yang’) để chỉ  vị chúa tể thần linh tức là ‘ông trời’ theo cách gọi của người Việt. Trong một phút cao hứng, Lê Đức Dũng diễn tả những lời cúng ‘giàng’ như một thầy mo chuyên nghiệp. Tôi rất ngưỡng mộ khả năng thiên phú về tiếng Thượng của Dũng nhưng đáng tiếc anh đã qua đời khi hãy còn tương đối trẻ.

Mẹ & Con

‘Kâo’ trong tiếng Rađê và Jarai là ‘tôi’ nhưng người ta cũng thấy ‘kâo’ xuất hiện trong tiếng Chàm và Mã Lai. Nếu học được chữ ‘kâo’, người Việt có thể đoán ‘Kâo sang chơ’‘Tôi đi chợ’ vì người Thượng không có khái niệm về ‘chợ’ nên phải mượn chữ ‘chợ’ của người Kinh.

Tôi cũng đã có thời gian làm việc với đoàn Y tế Milphap (Military Provincial Health Assistance Program) tại Dân y viện Ban Mê Thuột và đây cũng là cơ hội để tôi học được một số tiếng Thượng qua tiếp xúc với các bệnh nhân và y tá người Rahdé. 

Kỷ niệm về ‘ngôn ngữ’ còn nhớ cho đến bây giờ là chuyện một số y tá người Thượng đã ‘chơi chữ’ với một cô giáo người Kinh. Cô giáo vốn chân ướt chân ráo lên miền Thượng dạy y tế cho người Thượng nên rất muốn học một ít tiếng Thượng để dễ dàng trong việc giao tế hàng ngày.

Trong số học viên y tá người Thượng có anh dậy cho cô một câu: “Kâo chăng ung” và giải thích là “Chào buổi sáng”. Thế là ngay ngày hôm sau cô áp dụng câu vừa học với các học sinh khi vào lớp. Khi nghe câu “Kâo chăng ung” cả lớp cười ồ trước sự ngỡ ngàng của cô giáo. Mãi hôm sau, nhờ bí mật tìm hiếu về câu “Kâo chăng ung” cô giáo mới ‘tá hỏa’ khi phát hiện đó không phải là lới chào buổi sáng mà là “Tôi muốn chồng”!

Câu chuyện mang âm hưởng chuyện tình của ông chủ nhà sách Cao Trí Y Ti kết hôn cùng một bà người Việt mang tính cách đặc thù của xứ Thượng ‘mẫu hệ’, người con gái ‘cưới’ chồng chứ không phải là người con trai ‘chọn’ vợ.

Đời người có rất nhiều chuyện lạ để khám phá, trong đó chuyện mang tính cách ‘tiếu lâm’ miền Thượng của cô giáo người Kinh là một kỷ niệm sâu xắc nhất mà tôi còn nhớ lại cho đến bây giờ. Làm sao có thể quên được khi cô giáo đó lại chính là ‘bà xã’ của tôi sau này!     

Cô giáo người Kinh bên học trò người Thượng

***

Chú thích:

[1] Về nhà văn Thế Uyên và giáo sư Nguyễn Đình Dũng, xem thêm bài viết “Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Lính tráng” tại:

[2] Xem “Đọc lại Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng” tại:

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.            Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.            Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.            Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.            Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.            Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.            Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.            Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.            Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.            Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 

Tác giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!


--> Read more..

Popular posts