(Tiếp
theo)
Hồ
Xuân Hương được coi là nhà thơ tranh đấu cho quyền bình đẳng của nữ giới, ngày
nay người ta thường gọi là phong trào giải phóng phụ nữ (women’s liberation
movement). Cho dù Women’s Lib chỉ chính thức bắt đầu từ thập niên 60 nhưng Bà Chúa Thơ Nôm đã có những tư tưởng
“cách mạng” về vai trò của phụ nữ từ hơn 200 năm trước.
Trong
một xã hội bị trói buộc bởi Nho giáo, việc phụ nữ chửa hoang là điều tối kỵ nên
mới có câu mỉa mai “Không chồng mà chửa mới
ngoan / Có chồng mà chửa thế gian sự thường”. Là một nhà thơ nữ, Hồ Xuân
Hương đã dũng cảm nói lên tâm sự của cô gái mang trong bụng một “khối tình” chỉ
vì “cả nể” nhưng vẫn mạnh bạo mỉa mai sự nghịch lý chua chát của thân phận đàn
bà: “Không có nhưng mà có mới ngoan”.
“Vịnh người chửa hoang”
Trong
bản dịch bài thơ Vịnh người chửa hoang,
giáo sư John Balaban dùng tựa đề The
Unwed Mother, trong đó “cả nể” được chuyển thể sang tiếng Anh thành “too
easy”; “nỗi lòng” thành “the hollow in my heart” và “không có nhưng mà có mới
ngoan” biến thành “don’t have it, yet have it! So simple”.
Tôi
nghĩ, cách chuyển thể của Balaban chỉ mới thoát ý về mặt ngôn từ. Ý nghĩa sâu
xa của câu ca dao Việt Nam “Không chồng
mà chửa…” chắc hẳn người đọc nước ngoài trong bối cảnh một nền văn hóa khác
hẳn Việt Nam làm sao hiểu được sự mỉa mai của Hồ Xuân Hương. Câu kết “Don’t have it, yet have it! So simple”
của Balaban chắc chắn trở thành khó hiểu đối với người đọc bản dịch, nó không
“đơn giản” (so simple) như lời của người dịch!
Because
I was too easy, this happened.
Can you
guess the hollow in my heart?
Fate
did not push out a bud
even
though the willow grew.
He will
carry this a hundred years
but I
must bear the burden now.
Never
mind the gossip of the world.
Don’t
have it, yet have it ! So simple.
Công
việc dịch thuật của Balaban khó khăn hơn nhiều nếu so với những cảm tác bằng
tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái. Chẳng hạn như bài Vịnh cái quạt cũng là một ý “đột phá” trong thơ Hồ Xuân Hương mà cố
danh họa trình bày qua nét phác thảo. Tuy thơ và họa hoàn toàn không trùng khớp
với nhau nhưng người đọc thơ cũng như xem tranh vẫn tìm thấy ở đâu đó nét tương
đồng ngoài việc có chung một hình ảnh là cái quạt:
Một lỗ
sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên
em dính dáng tự ngàn xưa.
Vành ra
ba góc da còn thiếu,
Khép lại
đôi bên thịt vẫn thừa.
(Vịnh cái quạt)
Cảm tác “Vịnh cái quạt” của Bùi Xuân Phái
Dựa
vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân
Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận ban đầu về tiểu sử của
bà: Hồ Xuân Hương (1772-1822) thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan
nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.
Bà Chúa Thơ Môm là một nhân vật văn
học có nhiều bí ẩn, nói theo ngôn ngữ thời nay, Hồ Xuân Hương là người “có nhân
thân không rõ ràng”. Bà là một phụ nữ tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, nhưng đời tư
lại gặp nhiều bất hạnh, sóng gió.
Nguyễn
Hữu Tiến trong Danh nhân Dị mặc còn
mô tả Hồ Xuân Hương có khuôn mặt “rỗ hoa” nên lận đận về đường tình duyên. Có
thể đó cũng là lý do Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn, mà đến hai lần đi lấy chồng,
cả hai lần đều làm lẽ và cả hai cuộc hôn nhân đều ngắn ngủi, không có hạnh
phúc.
Theo
tài liệu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Lê Xuân Giáo, nữ sĩ lại có tới 3 đời chồng
chứ không phải hai: người chồng đầu tiên là một ông cai tổng có tục danh là Cóc,
tiếp đến là quan tri phủ Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Yên) họ tên đến này vẫn chưa rõ và
cuối cùng là quan tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển.
Cũng
theo Nguyễn Hữu Tiến, lúc trẻ Xuân Hương bị mẹ ép uổng phải lấy Tổng Cóc vốn đã
dốt lại có tính ăn chơi bạt mạng, sau một lần đánh bạc thua nhẵn túi, gia sản
khánh kiệt nên tiếc của mà chết. Theo Dương Văn Thâm, Xuân Hương làm bài thơ nổi
tiếng Khóc Tổng Cóc lời lẽ trào phúng
trong thời gian sau khi tái giá với tri phủ Vĩnh Tường:
Chàng
Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp
bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc
đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn
vàng khôn chuộc dấu bôi vôi
Nguyễn
Văn Hanh là người áp dụng phương pháp bệnh lý vào việc khảo cứu văn học theo
Phân Tâm Học của Sigmund Freud, ông viết về trường hợp Hồ Xuân Hương: “Người ta ai cũng có sẵn tình dục. Nếu để tự
nhiên theo sự nảy nở của cơ thể thì không sao, nhược bằng vì một lý do nào đó
mà phải kiềm chế, thì có thể xảy ra bệnh lý gọi là “ẩn ức tình dục,” khiến con
bệnh sinh ra những ý nghĩ, ngôn ngữ, hành động đặc dục tình…”.
Thơ
Hồ Xuân Hương bài nào cũng đầy ắp những hình tượng tính dục nhưng lại được chuyển
tải bằng một thứ ngôn ngữ rất “đời thường”, chẳng hạn như “nòng nọc đứt đuôi”
hoặc “cửa son đỏ loét tùm hum nóc”:
Một
đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai
khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son
đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá
xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo
cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa
lá liễu giọt sương gieo.
Hiền
nhân, quân tử ai là chẳng…
Mỏi gối,
chồn chân vẫn muốn trèo.
(Đèo Ba
Dội)
Cũng
vì những ngôn từ bình dân đó mà ngày nay người ta thường “nhái” thơ Hồ Xuân
Hương để biến thành thơ… tếu. Chẳng hạn như bài Đèo Ba Dội đã được người đời sau biến thành hình ảnh và lời thơ vui
như dưới đây:
Một trong những câu thơ “nhại” bài “Qua Đèo Ba Dội”
Họa
sĩ Bùi Xuân Phái cũng có một bức tranh thiếu nữ khỏa thân cảm tác từ bài Đèo Ba Dội. Bằng những nét phác thảo đơn
sơ, Bùi Xuân Phái đã cho chúng ta thấy một người phụ nữ trên người không mảnh vải,
ngoại trừ chiếc khăn vấn trên đầu theo kiểu phụ nữ miền Bắc ngày xưa:
“Đèo Ba Dội”,
tranh Bùi Xuân Phái
Hai
chị em người thiếu nữ trong Tranh hai tố
nữ lai là một bài thơ không mang tính dục, Hồ Xuân Hương chỉ đưa ra một
hình ảnh đẹp, “chị cũng xinh mà em cũng xinh” cái đẹp “mỏng manh” của tờ giấy
trắng mà tạo hóa đã nhào nặn.
Hỏi bao
nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị
cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa
như in tờ giấy trắng,
Nghìn
năm còn mãi cái xuân xanh.
Phiếu
mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu
thôi đành phận mỏng manh.
Còn thú
vui kia sao chẳng thấy,
Trách
ông thợ vẽ khéo vô tình.
(Tranh
hai tố nữ)
“Ông
thợ vẽ” Bùi Xuân Phái không thể nào “vô tình” trước hai chứ không phải là một
tòa thiên nhiên. Ông có sáng kiến cho người mẫu đứng trước gương để tạo một
hình ảnh phản chiếu “như in” và chúng ta được thưởng thức cái đẹp của hai tố nữ.
Dù không thấy mặt nhưng ngắm tranh ta cảm nhận được ngay hai thân hình gợi cảm:
"Tranh hai tố nữ",
tranh Bùi Xuân Phái
Theo
tôi, Thiếu nữ ngủ ngày là một trong
những bài thơ hay của Hồ Xuân Hương với cách dùng chữ rất… Xuân Hương! Chúng ta
hãy tưởng tượng một buổi trưa hè “hây hẩy” gió nồm từ hướng đông thổi về, người
thiếu nữ tuy chỉ “nằm chơi” nhưng rồi lại thiếp đi trong giấc ngủ ngày… Yếm đào
trễ xuống để lộ đôi “gò bồng đảo” và bên dưới là “lạch đào nguyên”. Bạn sẽ xử
trí ra sao khi đứng trước cảnh này?
Mùa hè
hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ
nằm chơi quá giấc nồng.
Lược
trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào
trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò
bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch
đào nguyên nước chửa thông.
Quân tử
dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì
cũng dở, ở không xong.
(Thiếu
nữ ngủ ngày)
Bùi
Xuân Phái lấy ý hai câu cuối để phác thảo bức tranh Thiếu nữ ngủ ngày:
“Thiếu nữ ngủ ngày”,
phác thảo của Bùi Xuân Phái
Thơ
Hồ Xuân Hương và cảm tác của họa sĩ Bùi Xuân Phái về những bài thơ đó còn khá
nhiều nhưng chỉ xin đưa ra hai bài nữa. Đó là bài Giếng nước và một bài thơ hơi dài: Đánh cờ.
Ngõ sâu
thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng ấy
thanh tân, giếng lạ lùng.
Cầu trắng
phau phau đôi ván ghép,
Nước
trong leo lẻo một dòng thông!
Cỏ gà
lún phún leo quanh mép,
Cá giếc
le te lách giữa dòng.
Giếng ấy
thanh tân ai đã biết?
Đố ai
dám thả nạ rồng rồng.
(Giếng
nước)
“Giếng nước”,
Tranh Bùi Xuân Phái
Chàng với
thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn
lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng
đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại
thuỷ không ai được biết.
Nào tướng
sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi
ta quyết liệt một phen.
Quân
thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai
quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thọat mới
vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội
vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe
hà, chàng gác hai bên,
Thiếp
thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa
thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt
đầu dú dí vô cung,
Thiếp
đang mắc nước xe lồng,
Nước
pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo
chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua
thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui
nước nước non non,
Khi buồn
lại giở bàn son quân ngà
(Đánh Cờ)
“Đánh cờ”,
tranh Bùi Xuân Phái
Ngoài
thơ chữ Nôm, những bí ẩn về Hồ Xuân Hương đã phần nào lộ diện qua những bài thơ
chữ Hán. Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân
Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh
Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ
này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù,
Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài viết Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng
trên tập san Khoa học xã hội, tại
Paris năm 1984.
Năm
1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương ký (琉香記)
mà nhiều người cho rằng những bài thơ đó là của Hồ Xuân Hương. Lưu Hương Ký là tập thơ có nội dung tình
yêu, gia đình, đất nước, nhưng không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân
Hương bằng thơ Nôm, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu
được thực hiện qua những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.
Cũng
cần phải nói thêm, tập Lưu Hương Ký gồm
24 bài thơ chữ Hán và 28 bài chữ Nôm nhưng tựa đề thì vẫn bằng chữ Hán. Đọc Lưu Hương Ký ta thấy Xuân Hương có khá nhiều bạn trai, bạn
thơ, bạn tình... nào Nguyễn Hầu, nào Trần Hầu, nào Tốn Phong thị, Mai Sơn Phủ,
Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên, Chí Hiên... Lưu Hương Ký có rất nhiều
câu than thân nên Trần Thanh Mại nhận xét: "Lưu
Hương Ký là tiếng kêu thất vọng để có một tình yêu thành thực, thủy chung".
Trong
một bài nghiên cứu khá công phu của Nguyễn Thị Chân Quỳnh (*), tác giả đưa ra
nhận xét: “Ông Trần Thanh Mại xót thương
"người đẹp" thì nghĩ thế chứ công bình mà nói thì Xuân Hương của Lưu
Hương Ký thiếu gì bạn tình, chính mình không chuyên nhất, không chung thủy, sao
có thể trách người chẳng thủy chung?”.
Trong
Lưu Hương Ký có một bài rất được chú ý là bài Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu,
Nghi-xuân, Tiên-điền nhân, tạm dịch là nhớ bạn cũ viết gửi Cần Chánh học sĩ
Nguyễn Hầu, người ở Nghi-xuân, Tiên Điền. Đề tựa bài thơ khiến ta nghĩ ngay đến
Nguyễn Du bởi Nguyễn Du quê ở Nghi-xuân, Tiên Điền, năm 1805 được phong Du Đức
Hầu. Và đó cũng là một bí ẩn giữa Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du.
Theo
Nguyễn Thị Chân Quỳnh, khó có thể có một người họ Nguyễn thứ hai ở Tiên-điền
cũng được phong làm Cần Chánh học sĩ nên ông Trần Thanh Mại là người đầu tiên đoán
Nguyễn Hầu chính là Nguyễn Du. Bài thơ Cảm
cựu… được bắt đầu bằng 2 câu:
Dậm
khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Cậy ai
tới đấy gửi cho cùng.
Hai
câu thơ này cho ta cảm tưởng trên đường đi sứ sang Tàu, qua Thăng Long, Nguyễn
Du có gặp lại Hồ Xuân Hương và bài thơ được sáng tác ngay sau khi đôi bên chia
tay, tâm thần đang bị khích động nên mới
có "muôn nghìn nỗi nhớ".
Mối
tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng
rồi ra nửa khắc không.
Hồ
Xuân Hương nói rõ hai người dan díu với nhau đủ "ba năm vẹn", vậy thử
tìm xem Ông Hoàng Thơ Việt và Bà Chúa Thơ Nôm yêu nhau vào thời điểm
nào? Tác giả Chân Quỳnh phân tích:
“Nguyễn Du tuy sinh
(1765) ở Thăng-long nhưng năm mười tuổi mồ côi cha phải đến ở với anh là Nguyễn
Khản được vài năm thì về quê học. Năm 17 tuổi ta (1781), Nguyễn Du trở ra
Thăng-long, đi thi đỗ Tam trường rồi ở lại Thăng-long cho tới khi kiêu binh phá
nhà Nguyễn Khản (1784), Nguyễn Du phải trốn lên Thái-nguyên ở với cha nuôi họ
Hà, giữ chức Chánh Thủ hiệu (một chức quan võ nhỏ) ở đó. Như thế thì sự hiện diện
của Nguyễn Du ở Thăng-long trong khoảng thời gian 1781-4 coi như chắc chắn.
Về Hồ Xuân Hương, ông
Hoàng Xuân Hãn đoán bà sinh năm 1772 thì đến 1781 bà mới có 9 tuổi, dù cả hai đều
có mặt ở Thăng-long đủ ba năm cũng không thể bắt tình với nhau được”.
Hơn
nữa, Hồ Xuân Hương nói mối tình kéo dài "ba năm vẹn" thế mà trong suốt
tập Lưu Hương Ký không có lấy một bài
thơ của Nguyễn Du xướng hay họa với Xuân Hương. Đối với cặp tài tử hay thơ như
Xuân Hương - Nguyễn Du kể cũng lạ.
Chân
Quỳnh kết luận: “Chúng ta cũng chưa có bằng
chứng nào minh định là Nguyễn Du đã có một thời yêu Xuân Hương, bài "Cảm cựu..."
chỉ "minh chứng" mối tình của Xuân Hương đối với Nguyễn Du mà thôi.
Phần Nguyễn Du không có lấy một câu thơ nào cho biết đích xác Nguyễn Du có tình
với Xuân Hương. Ở đời có khi "hoa rơi tuy hữu ý" mà "nước chẩy lại
vô tình", chung quy chỉ là "giấc mộng rồi ra nửa khắc không"!
Hồ
Xuân Hương quả là một trường hợp đặc biệt trong văn chương Việt Nam cách đây
hơn 200 năm. Như đã nói ở phần trên, có 3 lý do chính khiến trường hợp của Hồ
Xuân Hương trở thành đặc thù và bí hiểm: (1) bà là người phụ nữ làm thơ, (2) bà
có tung tích bí ẩn, nên từ đó nảy sinh ra lý do thứ ba cho rằng những bài thơ
được coi là của Hồ Xuân Hương có thể do nhiều người sáng tác.
Bất
kể những lý do trên, chúng ta là những kẻ hậu sinh vẫn tự hào về một Hồ Xuân
Hương với những vần thơ “độc nhất vô nhị” và dĩ nhiên xứng đáng với danh hiệu Bà Chúa Thơ Nôm.
Hồ Xuân Hương trên bìa sách
“Giai Nhân Dị Mặc” của Nguyễn Hữu Tiến
(Imprimerie Tonkinoise, Hanoi)
***
Chú thích:
(*)
Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Châtenay-Malabry, tháng 9/1998. Thế Kỷ 21, số 115 tháng 11/1998. Sửa lại tháng 9/2005 (http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.net).
***
(Trích
Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi
Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương
1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương
2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương
3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương
4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương
5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương
6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương
7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương
8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương
9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác
giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho
đến ngày xuống lỗ)!