"Đời tôi để lịch
sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc
gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự
hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những
ai chà đạp mọi thứ tự do."
(Nhất
Linh – Nguyễn Tường Tam)
***
Đoạn
văn trên là bức thư tuyệt mệnh Nhất Linh viết ngày 7/7/1963 trước khi dùng độc
dược từ giã cõi đời để phản đối chính sách được coi là “đàn áp Phật Giáo” của Tổng
thống Ngô Đình Diệm. Ông tự sát một ngày trước khi bị chính phủ đem ra xét xử,
ngày 8/7/1963.
Diễn
biến chính trị trong năm 1963 đã dẫn đến sự cáo chung của nền Đệ nhất Cộng hòa,
qua đó hai anh em ông Diệm – Nhu đã bị hạ sát trong một cuộc đảo chính ngày
1/11/1963 của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Cái chết của Nhất Linh cũng được
coi là “giọt nước tràn ly” trong tình hình chính trị vào thời điểm đó.
Ngày
nay, các nhà sử học vẫn còn những ý kiến “trái chiều” về chính phủ của Tổng thống
Diệm. Ông có “công” hay có “tội” vẫn còn tùy thuộc vào chính kiến và sự nhận
xét của từng cá nhân người viết sử. Tuy nhiên, mọi người đều có chung một suy
nghĩ: cái chết của Nhất Linh năm 1963 là một hành động “phi thường” của một con
người can trường trong cuộc tranh đấu cho tự do.
Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam
(1906-1963)
Nhất
Linh là bút danh của Nguyễn Tường Tam, người đã thành lập “Tự lực văn đoàn”
(TLVĐ) vào nửa đầu thế kỷ 20. Dù chỉ tồn tại trong 10 năm (1932-1942), TLVĐ
đã trở thành “ngọn cờ đầu” trong sinh hoạt văn hóa – xã hội của Việt Nam trong
bối cảnh giao thời giữa xã hội phong kiến và cấp tiến.
Có người gọi đó là “luồng gió mới” thổi vào cuộc sống của người
dân Miền Bắc từ năm 1932 rồi lan rộng đến Miền Trung và sau cùng là Miền Nam. Các
nhà phê bình văn học còn gọi đó là một cuộc “khai phóng” bắt đầu từ những tác
phẩm nói lên tư tưởng và hành động của những con người đã từ lâu sống trong sự
kìm hãm của những suy nghĩ thủ cựu.
Trong tác phẩm Đoạn Tuyệt (1934), Nhất Linh lấy chủ đề là sự xung
đột giữa Cũ và Mới. Ông đã để cô Loan nói lên một quan niệm hoàn toàn mới về
gia đình, cụ thể là cảnh “mẹ chồng, nàng dâu”:
“Mẹ
chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ
tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất
gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không
thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung
sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường?”
Khi
thành lập “Tự lực văn đoàn”, Nhất Linh chỉ có một mục đích duy nhất là tập họp
những người đồng chí hướng trong văn giới để cổ súy những tư tưởng mới. Văn
phong của TLVĐ hoàn toàn theo phong cách “bình dân” nhưng đó lại là lối hành
văn chuẩn mực.
Tôn
chỉ của nhóm có ghi: “Ca tụng những nết
hay vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng
yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả qúy phái”. Cũng
vì thế, giáo dục trong suốt thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa tại Miền Nam, TLVĐ được
coi là “khuôn vàng, thước ngọc” cho các học sinh.
Ta
hãy đọc lại đối thoại “rất đời thường” giữa Loan và Dũng trước khi Loan đi lấy
chồng trong Đoạn Tuyệt. Dũng là người mà Loan yêu nhưng gia đình cô không chấp
nhận:
“- Năm nay cô nhất định
thôi học?
Loan đáp:
- Nào có ở em mà em định.
Em muốn học nữa nhưng nhà không cho.
- Vì cớ gì thế cô?
Ngập ngừng, Loan đáp:
- Vì... vì em không
còn ở nhà. Ra giêng có lẽ em...
Loan ngừng lại nhìn
Dũng nhưng thấy Dũng nét mặt không có gì đổi khác. Dũng ôn tồn nói:
- À, cô sắp sửa phải
về ấp Thái Hà. Khi nào có tin mừng tôi sẽ về...
- Thế ra anh đã biết?
- Vâng, tôi biết từ
lâu. Tôi vẫn đợi, nhưng không ngờ rằng sắp đến ngày cô về nhà chồng, tôi lại phải
đi xa. Nhưng thế nào tôi cũng phải cố về để mừng cô.
Loan mặt nóng bừng,
hai con mắt nhìn Dũng có vẻ căm hờn. Nghẹn nào, nàng bảo Dũng:
- Nhưng anh đã biết
đâu là một tin mừng. Đối với em không phải là tin mừng.
Thấy vẻ mặt ngơ ngác
của Dũng, Loan nói tiếp:
- Vì thầy me bắt ép
em.”
(hết trích)
Tác phẩm “Đoạn Tuyệt”
Cơ
quan ngôn luận của “Tự Lực văn đoàn” là tuần báo Phong Hóa (1932-1936) và Ngày
nay (1935-1940). Ngoài ra, văn đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay để tự xuất bản
sách của mình. Ban đầu, nhóm chỉ có 6 thành viên chính thức là những nhà văn nổi
tiếng một thời: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch
Lam (Nguyễn Tường Lân), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), và
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu). Về sau còn kết nạp thêm nhà thơ Xuân Diệu.
Bên
cạnh đó còn có những “cộng tác viên”, các nhà văn, nhà thơ Huy Cận, Trọng Lang,
Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu,
Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường
Bách...
Trong
những năm 1937- 1939, tờ Ngày Nay lại trở thành một cơ quan chính trị với những
bài xã luận đanh thép của Hoàng Đạo, đề cập đến những vấn đề cấp thiết của thời
đại. Ngoài ra, đây cũng là nơi “Tự Lực văn đoàn” cổ động cho Phong trào Ánh
Sáng với mục đích cải tạo nếp sống ở nông thôn.
Ngoài
việc viết văn, Nhất Linh còn hoạt động trong lãnh vực hội họa và ông cũng đã kết
bạn với các họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường (Le Mur), Lê
Minh Đức… Trên Phong Hóa, ông tạo ra hai nhân vật để “châm biếm” là Lý Toét và
Xã Xệ. Những hí họa này luôn tạo tác dụng đả phá cái cũ để xây dựng một xã hội
mới đến người đọc thời đó.
Lý Toét – Xã Xệ
Xã
Xệ là một ông xã trong làng với thân hình “béo tốt” còn Lý Toét là một ông già
nhà quê, giữ chức lý trưởng nên được gọi là Lý. Cụ Lý bị “đau mắt hột” từ bé
nên mắt mũi kèm nhèm, như viền vải tây mà ta gọi là “mắt toét”. Nhập hai chữ Lý
và Toét vào nhau thành tên chứ Lý Toét không phải là tên cúng cơm, bố mẹ đặt
cho.
Lý Toét ra tỉnh: “Quái, người ta chôn ai mà đào dài vậy??”
Bản
thân nhà văn Nhất Linh còn là một họa sĩ và đến ngày nay một số tác phẩm của
ông đã được giới thưởng ngoạn quốc tế đón nhận một cách trân trọng qua những cuộc
bán đấu giá tranh quốc tế.
Tháng
10/2010, một họa phẩm hiếm quí của Nhất Linh, bức “Cảnh Phố Chợ Đông Dương”
(Scène de Marché de rue Indochinois) đã được bán đấu giá tại Hồng Kông với giá
khởi đầu 25.000-32.200 Mỹ kim. Trong phần giới thiệu Nhất Linh và tác phẩm, Sotheby’s
Hồng Kông viết:
“Bạn cùng lớp với ông
có Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Mai Trung Thu, Georges Khán, Công Văn
Trung và Lê Ang Phan, những người mà sau này được xem là tầng lớp họa sĩ tiền
phong cho nền hội họa Việt Nam hiện đại.”
Bức tranh “Cảnh Phố Chợ Đông Dương” (Scène de Marché de
rue Indochinois) được đấu giá tại Sotheby’s
Để
kết thúc bài viết này, chúng tôi trở lại câu chuyện Nhất Linh trong vai trò một
nhà hoạt động chính trị. Ông là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939,
từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng khi hai đảng hợp nhất vào năm
1945.
Nhất
Linh chạy sang Quảng Châu và hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội để
chống Pháp dù trước đó (năm 1927) ông đã từng du học và tốt nghiệp Cử nhân Khoa
học Giáo khoa tại Pháp.
Sau
khi quân của Tưởng Giới Thạch vào Việt Nam, đầu năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về
Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng 3/1946, sau khi đàm phán với Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, ông giữ chức
Bộ trưởng Ngoại giao.
Vì
những bất đồng chính kiến với chính phủ, ông không dự Hội nghị Fontainebleau đàm
phán với Pháp dù được cử đứng đầu phái đoàn Việt Nam. Thay vào đó, ông lưu vong
sang Trung Quốc tháng 5/1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951.
Khi
Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ, ông bị coi như “đào nhiệm” cộng thêm tội “biển
thủ công quỹ” (tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp). Tuy nhiên, theo sử gia
David G. Marr, việc này “rất khó xảy ra” vì ông không thể nào được giao trách
nhiệm giữ tiền của phái đoàn.
Năm
1951, Nguyễn Tường Tam về nước, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của
Tự Lực Văn Đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm
1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt cho đến năm 1958.
Về
Sài Gòn, ông chủ trương giai phẩm “Văn hóa Ngày Nay” nhưng chỉ phát hành được
11 số thì bị đình bản. Nhất Linh ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh
Thi và Trung tá Vương Văn Đông nhưng cuộc đảo chính thất bại, ông bị chính quyền
Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.
Thái
độ “chùm chăn” của Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam được thể hiện qua bức tranh “Vịnh
tấm chăn len Chí Hòa” nhưng cuối cùng cũng dẫn đến bi kịch tự sát trong ngày “song
thất” (7/7/1963). Lời thơ được ghi trong bức tranh như sau:
“Một tấn chăn len
khám Chí Hòa
Ấy ai vượt ngục mới
đem ra,
Tù nhân tặng kẻ “chùm
chăn” kín
Tuy mỏng nhưng mà
cũng ấm da”
Bức tranh “Vịnh tấm chăn len Chí Hòa” của Nhất Linh
Thi thể của Nhất Linh được khâm liệm tại Nhà thương Grall, ngày 12/7/1963. Đoàn xe
tang đi qua các đường Mạc Đĩnh Chi, Phan Đình Phùng, Bà Huyện Thanh Quan, để rồi
ghé lại chùa Xá Lợi vào hồi 10g45. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, một người bạn thân
của Nguyễn Tường Tam, kể lại:
“Đám tang thật là đơn
giản, nhưng vô cùng ảm đạm, trang nghiêm. Khi khởi hành từ bệnh viện Grall, số
người tham dự còn thưa thớt, nhưng dần dần mỗi lúc một đông. Phần nhiều là
thanh niên, học sinh, sinh viên, giới trí thức. Có rất đông phóng viên, ký giả
ngoại quốc, nam có, nữ có, có mặt trong đám táng để chụp ảnh hoặc để quay phim.
Họ chịu khó biên chép tất cả những câu viết trên các đối trướng rồi nhờ người dịch
sang tiếng Anh. Họ lại còn ghi âm tất cả những lời khóc than kể lể của chị Nhất
Linh.”
…
“Đoàn xe tiến về đường
Phan Thanh Giản, rẽ sang đường Hai Bà Trưng rồi chạy về Gò Vấp. Có hàng trăm
chiếc xe, xe đạp lẫn xe gắn máy, trên mỗi xe có hai người, phần đông là thanh
niên, học sinh, sinh viên, có cả ký giả ngoại quốc nữa, băng băng đi theo sau,
hoặc đi trước, hoặc ở hai bên xe tang. Ngay cả trên nóc xe hơi cũng có người nữa.
Hàng phố, từ đường Hai Bà Trưng trở đi, đổ xô ra xem.
“Một điều đáng ghi nhận
là từ chùa Xá Lợi trở đi, không có một ngã tư nào là không có nhân viên công lực
đứng, không phải để giữ an ninh trật tự, mà trái lại, để cố tình cắt quãng đoàn
xe tang, làm sao cho số người tham dự đừng đông đảo.
“Và khi tới nghĩa
trang Gò Vấp, liếc nhìn chung quanh, ai nấy đều có một cảm giác nặng nề, ghê rợn,
dường như bao phủ bởi một bầu sát khí đằng đằng: chỗ này một tốp người vận quân
phục, chỗ kia một tốp, với súng trường, súng lục, tiểu liên, lựu đạn… Tôi tự hỏi,
chẳng hay họ chuẩn bị như vậy để bảo vệ ai, hoặc để giết ai ở một nơi hoang vu,
tĩnh mịch và tôn nghiêm này?”
Lễ cầu siêu cho Nhất Linh tại chùa
Xá Lợi
***
* Tác phẩm của Nhất
Linh:
·
Tiểu
thuyết
-
Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934)
-
Nắng thu (1934)
-
Đoạn tuyệt (1934-1935)
-
Lạnh lùng (1935-1936)
-
Đôi bạn (1936-1937)
-
Bướm trắng (1938-1939)
-
Xóm cầu mới (1949-1957). Trường thiên, viết dở dang.
-
Giòng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập:
Ba
người bộ hành
Chi
bộ hai người
Vọng
quốc
-
Nho phong (1924)
-
Người quay tơ (1926)
-
Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933)
-
Đi Tây (1935)
-
Hai buổi chiều vàng (1934-1937)
-
Thế rồi một buổi chiều (1934-1937)
-
Thương chồng (1961)
·
Tiểu
luận
-
Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961)
·
Dịch
phẩm
-
Đỉnh gió hú của Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974)[18]
·
Hội
họa
Mặc
dầu thời gian theo học Trường Mỹ thuật không lâu, Nhất Linh cũng đã để lại một
số tranh vẽ trong đó có bức “Scène de Marché de rue Indochinois” (Cảnh Phố Chợ
Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010 được
hãng Sotheby's bán đấu giá ở Hương Cảng với giá 596.000 Đô la Hồng Kông, tương
đương với 75.000 Mỹ kim.
***