* Lời
giới thiệu: Tháng 3/2017, nhân kỷ niệm ngày Ban Mê Thuột thất thủ (10/3/1975),
tôi có bài viết về thành phố khởi đầu sự sụp đổ của Sài Gòn. Đây chỉ là một tổng
hợp các nguồn thông tin, chắc chắn là chưa hoàn toàn đầy đủ. (http://chinhhoiuc.blogspot.com/.../ban-me-thuot-khoi-au...)
Mới
đây, trên trang FB của anh Phu Nguyen xuất hiện bài viết “PHỤNG DỰC - TRẬN ĐÁNH
ĐỂ ĐỜI” mà theo lời tâm sự riêng của tác giả: “…đây là mảnh ghép đẹp bị lãng
quên không kịp ghi vào quân sử. Phú chưa thấy tác phẩm nào nói đến nên mạn phép
ghi lại những gì tai nghe mắt thấy, cùng lời kể rất thật của anh cựu Đại tá Võ
Ân Trđ trưởng 53 và cựu Thiếu tá Võ Phước Lai, Tđ trưởng 1/53…”.
Phú
là cựu học sinh trường Trung học Ban Mê Thuột. Khi chiến sự xảy ra vào những
ngày tháng 3/1975, anh là một nhà báo đang đang ở quận Phước An chờ “xin một ghế
trên trực thăng để bay ra khỏi vùng khói lửa”. Chiếc Chinook không thể nào cất
cánh vì số người tỵ nạn quá đông nên anh ở lại tại vùng… “giải phóng” đầu tiên
của miến Nam!
Bài
viết là một chuỗi hồi ức, trải dài từ những ngày cuối cùng ở Việt Nam sang đến
Hoa Kỳ, nơi anh hiện định cư. Không những thế, ngoài chuyện nhà binh “đánh đấm”
còn có những chi tiết mà một người vốn đã có một thời gian ở BMT như tôi hoàn
toàn không ngờ đến. Chẳng hạn như tại sao lại đặt tên Phụng Dực cho phi trường
của thành phố?
Bài
viết tuy dài, mời các bạn cùng đọc để tưởng nhớ BMT, nơi khởi đầu của một kết
thúc.
***
PHỤNG DỰC - TRẬN
ĐÁNH ĐỂ ĐỜI
Phu Nguyen
“Old soldiers never die, they just fade away”.
"Người lính già không bao giờ chết, họ chỉ
mờ nhạt đi".
****************
Tôi được gặp Đại Tá
Võ Ân lần đầu tại Chi khu Phước An, lúc ấy là chiều 17 tháng 03 năm 1975, một
tuần sau khi nổ ra mặt trận Ban Mê Thuột.
Trong những ngày cuối
cùng của Ban Mê Thuột, sau khi tiểu khu Darlac và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB đã
thất thủ, chi khu Phước An trở thành trung tâm điểm của các hoạt động quân sự
ráo riết nhất, Thiếu tá Nguyễn Thanh Thọ quận trưởng đã nhiều ngày không ngủ,
vóc dáng thư sinh của anh như càng quắt hơn nữa, nhưng anh vẫn như con thoi tiếp
đón hết toán quân này đến vị chỉ huy khác.
Từ khi tiếng súng nổ
2 giờ sáng thứ Hai ngày 10/3, Phước An trở thành nơi tập trung của mọi đơn vị,
từ Trung tá Phạm Công Cẩn quận trưởng với đoàn lính quận Buôn Hô, đến Trung
đoàn 45 từ Pleiku về chuẩn bị cho cuộc tái chiếm Ban Mê Thuột. Tỉnh trưởng cuối
cùng của Darlac, Đại tá Trịnh Tiếu, cũng có ghé qua đây, nên Thiếu tá Thọ chủ
nhà suốt ngày đêm bận bịu tiếp đón, sắp đặt mọi chuyện.
Anh Võ Ân cùng với
khoảng 20 quân nhân vừa di tản từ bộ chỉ huy Trung đoàn 53 đóng cạnh căn cứ
B50, phi trường Phụng Dực về tới Phước An an toàn. Thiếu tá Thọ chạy vội ra giữa
sân quận đường chào đón toán quân:
- Chào Đại tá, Đại
tá vào phòng em nghỉ, để em cho lính lo cơm nước cho anh em liền.
Thấy vị sĩ quan trẻ
măng nhỏ con được đón vào chỉ đeo lon Trung tá, tôi nghĩ các sĩ quan thường hay
thưa cấp trên cao lên một bậc, như các anh gọi Chuẩn tướng bằng Thiếu tướng,
tôi hỏi nhỏ Thiếu úy Bùi Xuân Đình:
- Ông Trung tá này ở
đơn vị nào vậy ?
- Đại tá Võ Ân,
Trung đoàn trưởng 53. Vừa mới được tướng Phú đặc cách mặt trận vài ngày trước.
Vừa thì thầm bên
tôi xong, Thiếu úy Đình bước qua rót nước mời anh “Đại tá”. Tôi giật thót người
kín đáo liếc nhìn anh Võ Ân, anh rất trẻ, chỉ chừng ba mươi, khuôn mặt vẫn tươi
vui tỉnh táo dù đã một tuần liền không ngủ quần thảo với quân giặc. Anh có dáng
dấp của một giáo sư hơn là một quân nhân. Nếu không có bộ đồ trận và lon Trung
tá trên cổ áo, chắc không ai tin rằng anh là một sĩ quan cao cấp, đang đảm nhiệm
một chức vụ quan trọng như thế, và lại càng không thể tin được anh chính là người
hùng trận Phụng Dực, vừa đánh bại hai sư đoàn khét tiếng của cộng quân, sư đoàn
320 và sư đoàn 316, tại mặt trận phi trường Phụng Dực.
***************
Quận Phước An đầy
lính, có lẽ tôi là người mặc thường phục duy nhất trong chi khu, sự có mặt của
tôi trong trại lính là một ân huệ đặc biệt từ Thiếu tá Thọ. Đã mấy hôm trước,
khi quận còn yên tĩnh, tôi từ ngã ba Phước An chạy vào chi khu, xin gặp quận
trưởng và trình “Thẻ báo chí” do Bộ Dân Vận Chiêu Hồi cấp, để xin một ghế trên
trực thăng bay ra khỏi vùng khói lửa.
Thiếu tá quận trưởng
thương tình lắm, đề nghị cho tôi một chỗ trên chiếc Chinook vừa chuyển quân
Trung đoàn 45 từ Pleiku đến. Chiếc trực thăng hai cánh quạt rời chi khu Phước
An không bay thẳng về Nha Trang như phi trình, mà lại đáp xuống gần ngã ba Phước
An để đón vài thân nhân, vừa hạ bửng sau, một đoàn người chạy giặc liền tràn
lên kín tàu, chiếc Chinook è ạch cố cất cánh khỏi mặt đất, nhưng chỉ nhấc mình
lên được chừng vài chục mét lại rớt xuống ngay sát ngã ba, sau cố gắng sửa chữa
không thành, phi hành đoàn ôm cặp táp trở lại chi khu, tôi lẽo đẽo lội bộ theo
sau.
Thiếu tá Thọ thương
tình thằng em hẩm hiu, bèn xếp cho tôi xuống ngủ với các anh thuộc phòng chiến
tranh chính trị Sư đoàn 23, ở đó tôi gặp lại các “chiến hữu phe ta”: Thiếu úy
Bùi Xuân Đình là chồng của chị Huỳnh Thị Hòa Thơ, xướng ngôn viên làm cùng đài
phát thanh, Trung sĩ Lê Kế Chí cũng thuộc phòng Chiến tranh Chính trị Sư đoàn
và là đạo trưởng Hướng đạo Daklak…
****************
Có thể nói trong những
ngày chiến tranh nổ ra ở miền đất hiền hòa Bụi Mù Trời, tôi là một người may mắn,
ít ra là đến lúc này.
Hôm trước khi súng
nổ, tuy Chủ nhật ngày nghỉ, tôi nhận lệnh công tác ra phi trường Phụng Dực đón
Thiếu tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 Quân khu 2 đến kinh lý BMT, tôi
cũng biết tin quận Đức Lập vừa mất buổi sáng, nhưng tới lúc ấy, tôi không hề
nghĩ Việt cộng dám đánh BMT, nơi có địa thế trống trải, dân cư sung túc và chống
cộng triệt để, bao năm nay vẫn sống yên bình hiền hòa.
Khoảng hơn 2 giờ
sáng thứ Hai ngày 10 tháng Ba năm 1975, cả thị xã vang lên tiếng đại pháo của
giặc, im được một lát, rồi lại pháo, xen lẫn với tiếng súng nhỏ. Là nhân viên
trong ngành phát thanh, càng khi xảy ra biến sự, chúng tôi lại càng có nhiều việc
phải làm gấp, tôi dậy sớm hơn thường lệ, đeo chiếc máy thu âm Uher vội vã rảo
bước đoạn đường dài đến Đài.
Đài Phát thanh Ban
Mê Thuột có hai cơ sở, thượng tầng có nhà máy phát điện và trụ antenna cao 200m
tại ngã ba Chi Lăng, và hạ tầng ở số 1 Tự Do, góc đường ngã sáu cột đèn ba ngọn,
tôi làm việc ở hạ tầng này. Đi trên đường Quang Trung, vừa băng qua Phan Chu
Trinh gần tới hàng rào nhà thờ chính tòa, hai chiếc xe tăng xuất hiện phía Tòa
giám mục bắn thẳng một tràng về phía tôi, cố men theo hàng rào xi măng tôi chạy
vụt vòng tới Đài phát thanh, các anh Nghĩa quân gác cổng phải vội kéo kẽm gai
cho tôi len vào.
Khung cảnh tại Đài
thật hoảng loạn, anh Nguyễn Phụng Hải, Giám đốc Đài đang công tác ở Saigon chưa
về, chúng tôi như rắn mất đầu, đường dây điện thoại dân sự và quân sự đều hư,
phải dùng hệ thống truyền tin nội bộ SSB giữa các Đài Phát thanh liên lạc với Hệ
thống Truyền thanh ở Saigon xin lệnh, trong lúc đó, trên làn sóng chỉ phát nhạc
quân hành. Mọi người nhốn nháo nghe tiếng súng lúc xa lúc gần, ai cũng muốn tìm
đường chạy giặc, nhưng không ai dám bỏ nhiệm sở, và cũng chẳng ai biết nên chạy
hướng nào.
Gần trưa, một toán
Biệt động quân từ phía trường Trung học Tổng hợp đã xuất hiện ngay cạnh Đài
giúp chúng tôi vững tâm, tôi vội ra khu gia đình nhân viên định kiếm chút gì ăn
lót dạ. Khu nhân viên này nằm phía sau, có cánh cổng thông qua tư dinh Chuẩn tướng
Lê Trung Tường, Tư lệnh sư đoàn 23. Đúng lúc ấy, bà vợ tướng Tường đẩy cánh cổng
sắt, nói với qua phía chúng tôi:
- Các em rời khỏi
đây liền đi, Việt cộng tới bên Vinh Sơn rồi, đi về phía quân y viện Tăng cường
ra cây số ba nghe chưa.
Nói rồi bà quay ngoắt
ra sân trước, nơi có hai chiếc thiết giáp bánh hơi đang chờ.
Chúng tôi vội bỏ hết
mọi việc, băng qua hàng chè tàu ra đường Hùng Vương, cứ theo sự chỉ dẫn của các
anh lính Biệt động quân mang huy hiệu Tiểu đoàn 96, đi qua Hội đồng tỉnh, qua
trường trung học Tổng hợp, tới quân y viện Tăng cường nghỉ chân một lát, đến
khi nghe tiếng súng nổ vang phía Ty Cảnh sát quốc gia, chúng tôi vội vàng chạy
về hướng Thác nhà đèn, rồi băng ngang buôn Kosier ra quốc lộ 21, tới cửa rạp
ciné Nguyễn văn Cơ tại cây số ba.
Trời đã về chiều,
đoàn người có cả đàn bà con nít đi tìm chỗ trú ngụ qua đêm. Đang phân vân đi
loanh quanh, tôi gặp được Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn Đại đội phó Cảnh sát dã chiến
và toán cảnh sát áo rằn ri của anh, anh Tuấn đề nghị chúng tôi đến tá túc đỡ ở
chùa Dược Sư, trong lúc tâm hồn bấn loạn và lo sợ, thật không gì bằng đến những
nơi thờ phụng, mái chùa quả là chốn dung thân êm đềm nhất. Tối hôm ấy, tôi có
được giấc ngủ say ngon lành ngoài trời, trên nền bệ xi măng của tượng đài Quan
Âm hình bát giác, dù không mền gối và cả ngày qua chưa có chút gì vào bụng.
Sáng hôm sau, 11
tháng 3, nhớ lời dặn dò của bà Tư lệnh chỉ nói tới cổng số ba, chúng tôi cứ
loanh quanh nghỉ chân tại đó, chẳng biết nên chạy đi đâu. Chẳng phải tất cả các
quốc lộ xung quanh Ban Mê Thuột đều đã bị cắt đường rồi sao ? Quốc lộ 21 đường
về Nha Trang bị giật sập cầu biên giới ở Km88 cả tuần trước, quốc lộ 14 đi
Pleiku cũng bị chặn tại Thuần Mẫn, phía tây địch đã chiếm Đức Lập. Đi về hướng
nào cũng là đi gần đến vùng địch. Đúng là tiến thoái lưỡng nan !
Vừa lo sợ, vừa chán
chường, tôi một mình bước chân đến bên ngôi nhà thờ nhỏ cây số ba. Nhà thờ đóng
cửa im ỉm, cha xứ chắc đã đi lánh nạn nơi nào, tôi đứng lặng cầu nguyện bên
ngôi giáo đường gỗ cũ kỹ, thả hồn vào lời cầu xin thống thiết.
Bỗng một tiếng nổ
kinh hồn vang lên ngay khu nhà dân phía sau nhà thờ, khói đen bốc lên ngùn ngụt,
tôi co giò chạy ngược ra đường. Một chiếc xe Jeep từ trong xóm chạy ra, bò lên
mặt đường nhựa, tôi vội vàng phóng tới, bám vào sau xe đu mình lên, giọng một
người phụ nữ trong xe hối hả:
- Chú vô trong này,
coi chừng té.
Tôi rướn người cúi
đầu chui vào trong xe, lặng lẽ thu mình vào một góc, toàn những khuôn mặt xa lạ.
không biết các anh đồng sự đi chung giờ chạy hướng nào. Chiến tranh ghê gớm
quá!
Chiếc xe leo dốc cổng
số năm rồi rẽ trái về hướng Phước An. Khi qua cây số mười hai, bên hàng cây cao
su thẳng tắp, quân đội đang dàn ra những khẩu đại bác 105 ly, phía sau là vài
chiếc xe cam nhông chở đạn.
Đến Phước An thì trời
đã về chiều, cả hai bên đường dọc theo quốc lộ là từng đoàn xe dân sự, xe đò
có, xe ba lua có, cả xe lam lẫn máy cày rờ moọc, tất cả đều quay đầu về hướng
Nha Trang. Khung cảnh nơi đây thật náo nhiệt, người nằm người ngồi đầy cả hai
bên đường, họ gọi nhau ơi ới như không hề biết đến chiến tranh là gì. Tôi đi dọc
theo đoàn xe, hỏi thăm may ra có tìm được cha mẹ anh em. Trời dần tối, những bếp
lửa lập lòe nấu ăn hai bên đường, như những đốm ma trơi gọi hồn dân lành trong
cuộc chiến bất nhân và vô nghĩa.
****************
Tiếng Thiếu tá Thọ
kéo tôi về thực tại:
- Lệnh cấp trên phải
di tản ngay đêm nay. Các anh em chuẩn bị 6 giờ rưỡi lên đường, tôi sẽ đích thân
dẫn các anh em theo đường rừng đi tới Khánh Dương. Tới đó sẽ có GMC đưa anh em
vào Nha Trang.
Tôi phụ anh Bùi
Xuân Đình soạn chiếc ba lô của anh, bỏ lại gạo và những gì không thật cần thiết,
chỉ giữ hai gói khoai dẻo và vài bịch gạo sấy ăn đường. Nhìn qua phòng làm việc
của quận trưởng, vóc dáng nhỏ con của Đại tá Võ Ân vẫn ngồi bình thản trên
salon, toán lính của anh đã đến trước cửa, nhấp ngụm trà nóng, anh đứng bật dậy
chào mọi người, chúc bình an rồi thoăn thoắt rời khỏi trại, như coi nơi đây chỉ
là trạm dừng chân phút chốc. Tôi thẫn thờ đứng dậy nhìn theo bóng anh thoắt ẩn
thoắt hiện giữa đám quân nhân, rồi vụt biến mất nhanh chóng qua một khúc cua.
Tiếc mãi chưa được hỏi anh điều gì về diễn biến của trận đánh hào hùng thoáng
nghe kể lại.
****************
Cuộc sống sau năm
1975 ở quê nhà nhiều tủi nhục, nhiều ước ao bỏ xứ. Mọi chuyện xưa Ban Mê tưởng
chừng đã thành đống tro tàn bay theo gió.
Thật tình cờ, một
buổi sáng cuối năm 1990, tôi gặp lại khuôn mặt “quen lắm” của anh Võ Ân ở chợ
Trương Minh Giảng Saigon, tôi bạo dạn lại gần chào anh.
- Chào “ông thầy”.
ông thầy khỏe không ?
- Cảm ơn, tau cũng
khỏe, mi ở 53 ?
- Dạ không, em trước
ở Đài phát thanh Ban Mê Thuột, có gặp anh ở chi khu Phước An ngày cuối.
- Vậy à, giờ làm gì
?
- Em nghe nói anh
đi “học tập” cũng lâu lắm.
- Ờ ! Mười mấy cuốn,
ngoài Bắc.
- Anh bán hàng ở
đây ?
- Tau phụ bả mấy phụ
tùng xe đạp này nè, ráng qua ngày, chờ đi.
- Anh uống với em
ly cà phê !
Trong lúc cởi lòng
tâm sự với anh nơi góc quán cóc, máu “nghề nghiệp” trong tôi bỗng nổi lên, tôi
liền thỏ thẻ hỏi anh:
- Kỳ đó mà đủ đồ
chơi chắc anh chơi tới bến ?
- Thôi chuyện cũ rồi,
nhắc chi, đời còn dài …
****************
Tôi đến Mỹ năm
1992, định cư ở Denver, thuộc tiểu bang Colorado là vùng cao nguyên nằm giữa nước
Mỹ, tuy ở trên cao nguyên, nhưng Denver không có nhiều đồi núi, mà cũng tương đối
bằng phẳng, chẳng khác gì cao nguyên Darlac. Vậy là Việt Nam ở Ban Mê, qua đây
lại cũng ở Ban Mê nốt. Người Việt định cư ở đây không nhiều, chỉ chừng 10.000,
túm tụm vào dọc một khúc đường Federal, nơi có chợ Mê Kông, chợ Thái Bình
Dương, văn phòng bác sĩ Trần Văn Điền, nha sĩ Trần Mộng Quỳ, có tiệm vàng Kim
Sơn chợ BMT đã di tản qua đây, con gái ông bà Kim Sơn là Bùi Thị Kim Anh cựu học
sinh THTHBMT 72-79 cùng chồng Sử Ngọc Minh cũng mở tiệm vàng Kim Anh trong khu
Viễn Đông.
Vài tháng sau, anh
chị Đình – Thơ từ BMT qua định cư ở đây, đón anh chị từ phi trường về chung cư,
chúng tôi họp nhau làm một chương trình Truyền hình tiếng Việt, mỗi tuần phát
hình một lần nửa tiếng, làn sóng được đài truyền hình Mỹ tặng không. Người Việt
ở đây đang khao khát nghe tiếng Việt, nên truyền tai nhau đón coi dữ lắm, nhờ vậy
chúng tôi được nhiều người biết mặt chào hỏi.
Hôm ấy, một anh Việt
Nam hàng xóm qua thăm hỏi tôi trước nhà, mời anh vào uống nước mới biết anh là
Thiếu tá Võ Phước Lai, Tiểu đoàn trưởng 1/53, mới qua định cư xứ Mỹ. Hỏi thăm về
Đại tá Võ Ân, anh cho biết anh Võ Ân cũng đang ở Denver đây, nhưng vừa bị tai
biến mạch máu não. Tôi quyết định dịp này phải gặp anh kỳ được, để hỏi về trận
đánh để đời của các chiến sĩ Trung đoàn 53, Sư đoàn 23 Bộ binh tại phi trường
Phụng Dực.
Nhờ anh Lai làm cuộc
hẹn, chúng tôi đến thăm anh Võ Ân trong căn hộ đơn sơ ven thành phố Denver đầy
nhà chọc trời. Giữa những đồ đạc cọc cạch của người mới đến định cư, anh cố ngồi
dậy, chúng tôi đỡ anh ra salon, anh có vẻ yếu lắm, giọng nói không còn dễ nghe,
nhưng mắt anh sáng lên mỗi khi nhắc đến chiến địa năm xưa, những địa danh, những
tên tuổi cũ.
****************
Phụng Dực là tên của
phi trường chính Ban Mê Thuột, nằm cách thị xã khoảng 7 km, trên đường đi Trung
Hòa, Kim Châu, Lạc Thiện. Phi trường được thành lập năm 1951 để có thể tiếp nhận
các phi cơ cỡ lớn, với tên gọi phi trường Ban Mê Thuột.
Trước đó, người
Pháp đã lập một phi trường với phi đạo ngắn dành cho phi cơ nhỏ, sát bên trung
tâm thị xã, nối với cây số ba, phục vụ cho các ông chủ đồn điền và quan chức,
được đặt tên là phi trường Lạc Giao, sau này dành cho trực thăng và phi cơ thám
thính "máy bay bà già L19", nên thường gọi là phi trường L19.
Thời ấy, cao nguyên
rừng rậm có nhiều thú hoang, cọp, voi, tê giác, trâu rừng (min), nai, hoẵng, cá
sấu, chim phượng hoàng... còn đầy dẫy, người dân sống quanh phi trường Ban Mê
Thuột đều biết hàng đàn chim phượng hoàng mỏ cứng mấy chục con ngày nào cũng
quanh quẩn kiếm ăn gần phi trường, chúng dạn dĩ đến nỗi người đến đuổi cũng
không sợ, chỉ chao lên mấy bước lại đáp xuống gần đó trên phi đạo.
Năm 1957, Tổng thống
Ngô Đình Diệm đến khai mạc hội chợ Ban Mê Thuột, khi máy bay hạ cánh xuống phi
trường, ông thấy một đàn chim lớn bay lên. Tổng thống Diệm hỏi chúng là loài
chim gì mà to lớn thế,
- Dạ thưa cụ, chim
phượng hoàng.
- À, chim phụng,
chim phụng bay lên, vậy thì đặt tên phi trường này là "phụng dực"
Phi trường mang tên
Phụng Dực là từ đó.
Phi
trường Phụng Dực (Ảnh trên FB Phu Nguyen)
Thực ra Trung đoàn
53 mới đến Phụng Dực vào đầu tháng 3 để dưỡng quân sau trận Dak Song dữ dội
vùng biên giới Việt - Miên gần Đức Lập. Tại phi trường Phụng Dực luân phiên chỉ
có một Tiểu đoàn trấn đóng cùng Bộ chỉ huy Trung đoàn.
Lúc này lực lượng
VNCH tại đây có khoảng 700 quân nhân gồm có :
- Bộ chỉ huy Trung
đoàn 53, Sư đoàn 23 Bộ binh.
- Tiểu đoàn 1/53.
- Một chi đội
Thiết giáp 5 chiếc M113 của Thiết đoàn 8 Kỵ binh.
- Pháo đội B của Tiểu
đoàn 232 Pháo binh 6 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly.
- Đại đội Trinh sát
Sư đoàn 23 BB.
- Hậu cứ Liên đoàn
Biệt Động Quân biên phòng.
Căn cứ B50 cạnh phi
trường có chu vi hơn một cây số, trước đây là trại Lực lượng Đặc biệt của Mỹ
nên công sự được xây cất rất kiên cố, có tất cả 11 hầm chịu đựng được đạn pháo
130 ly, xung quanh xếp bao cát cao làm thành những ụ chiến đấu cá nhân. Ngoài
xa là một vòng đai hàng rào kẽm gai nhiều lớp bao bọc.
***************
TRẬN CHIẾN ĐỂ ĐỜI :
- Ngày 10 tháng 3 năm 1975
Vào 6 giờ sáng, một
Trung đoàn của Sư đoàn 320 CSVN tấn công vào phi trường Phụng Dực nhưng bị Đại
đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB mai phục sẵn ở các vị trí thuận lợi khai hỏa bất ngờ
khiến cộng quân thiệt hại nặng buộc phải rút lui.
Phát giác việc chọn
sai mục tiêu, SĐ 320 CSVN quay lại vào lúc 2 giờ chiều, đánh thẳng vào căn cứ
B50 đang do Tiểu đoàn 1/53, Trung đoàn 53 BB trấn giữ. Tiểu đoàn 232 Pháo binh
VNCH đóng trên đồi đối diện với căn cứ B50 bèn chong 105 ly bắn trực xạ vào 2
tiểu đoàn CSVN đang phơi trên đồng trống.
Đến 3 giờ 30 chiều
cuộc tấn công của Sư đoàn 320 hoàn toàn thất bại, quân CSVN chạy tháo về hướng
Tây Nam, đụng phải Đại đội trinh sát thuộc Trung đoàn 45 VNCH đang chờ sẵn tại
bìa rừng cao su gần phi đạo đánh cho tan nát. Sau khi chiến trường im tiếng
súng, Đại đội Trinh sát đếm được 40 xác, thu nhiều vũ khí, trong đó có 5 hỏa tiễn
tầm nhiệt SA7 còn mới nguyên. Riêng tại căn cứ B.50 các chiến sĩ Tiểu Đoàn 3/53
bắn cháy hai chiến xa T54, đếm được khoảng 150 xác giặc, thu 50 vũ khí. Trung
Tá Ân cho con cái đem chiến lợi phẩm vào phòng khách phi trường.
- Ngày 11, 12 và 13 tháng 3,
Thị xã Ban Mê Thuột
và Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 đã mất vào tay giặc. Nhưng tại phi trường Phụng Dực,
"mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh". Trung tá Võ Ân báo tin chiến thắng
về quân khu, nhất là việc thu được 5 hỏa tiễn SA7 lần đầu tiên xuất hiện trên
chiến trường, ông ra lệnh binh lính thu lượm từng viên đạn của địch quân, sắp sẵn
để xử dụng khi cần thiết. Ông cũng cho sắp xếp ngăn nắp các chiến lợi phẩm
trong phòng khánh tiết phi trường.
Nhân lúc tình hình
yên ắng, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 thông báo sẽ đích thân
đáp xuống phi trường Phụng Dực dự cuộc triển lãm chiến lợi phẩm, cùng lúc sẽ có
Trung đoàn 45 đến tiếp viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Tiếc rằng cuộc chuyển
quân cứu viện của Trung đoàn 45 không thành, và ông Tướng đành hủy cuộc thị sát
mặt trận như dự định.
Ngày 13 tháng ba,
trong lúc bay chiếc phi cơ nhỏ U 17 để trực tiếp điều quân, Thiếu tướng Phạm
Văn Phú qua máy truyền tin liên lạc, đã thông báo đặc cách mặt trận cho anh lên
Đại tá, vị Đại tá duy nhất của khóa 12 Thủ Đức.
- Ngày 14 tháng 3
Sư Đoàn 316 BV củng
cố xong vị trí chiếm được tại thị xã Ban Mê Thuột, bắt đầu dồn quân tấn công
vào phi trường Phụng Dực, nhất định dứt điểm tuyến phòng thủ đã tơi tả của
Trung đoàn 53, Trung tá Ân ban lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm
đạn dược, anh ra lệnh cho sử dụng súng đạn thu được của địch để bù vào lượng vũ
khí ngày dần cạn kiệt.
Sáu giờ sáng, cộng
quân dùng chiến thuật biển người, cứ vừa bắn vừa lúp xúp chạy thẳng vào hàng
rào căn cứ, toán trước ngã xuống thì toán sau đạp lên xác tiến vào. Để tiết kiệm
số đạn dược ít ỏi còn lại, Trung tá Võ Ân chụp máy gọi ngay pháo binh, cả tám
khẩu 155 và 105 ly thi nhau dội vào đội hình của Sư đoàn 316. Sau khi bị thiệt
hại nặng vì đạn pháo, các đơn vị CSVN vội vàng quay lại đối diện với căn cứ
pháo binh rồi lặng lẽ rút lui.
- Ngày 15 tháng 3
Vào 8 giờ sáng, sau
trận tấn công không thành ngày hôm trước, Sư đoàn 316 gom lực lượng còn lại tấn
công căn cứ. Lần này bộ chiến tùng thiết ỷ y ra mặt đánh thẳng vào căn cứ giữa
ban ngày, Đại tá Võ Ân cùng đồng đội vẫn không nao núng, nhờ vào địa thế trống
trải bằng phẳng dễ quan sát, các chiến sĩ Trung đoàn 53 đã dùng B40, B41 thu được
của địch hôm trước, chờ xe tăng T54 đến sát hàng rào mới nổ súng, mỗi phát đạn
phải nướng đỏ một con cua, cả đàn cua nằm phơi ngay bờ rào căn cứ,
Bên kia, pháo binh
chĩa nòng tung đạn cận phòng đầy đinh lên đầu quân thù, đến 10 giờ sáng, 6 khẩu
đại bác tại căn cứ pháo binh hết đạn, sau tiếng nổ của viên đạn cuối cùng, chiến
trường chỉ còn khói súng, quân cộng không thấy đâu nữa.
- Ngày 17 tháng 3
Từ mờ sáng, hàng
ngàn quả pháo đã cày nát mặt đất căn cứ B50, liền sau đó một lực lượng địch
quân đông đảo, cùng nhiều chiến xa kéo đến bao vây tấn công, để bằng mọi giá phải
nhổ cái gai cuối cùng của Ban Mê Thuột. Đại tá Võ Ân cho kiểm điểm tình hình đạn
dược, một số binh sĩ hết đạn, anh ra lệnh cho thu gom súng đạn của địch để cố
thủ.
Đến trưa ngày 17-3
thì tình hình trở nên tuyệt vọng, không còn liên lạc được với BTL Sư đoàn của
Tướng Lê Trung Tường, cũng không liên lạc được với Quân đoàn 2. Đến khi phi vụ
thả dù tiếp tế cuối cùng vì phòng không địch quá rát, đã thả từ rất cao, rơi xa
vị trí đến tận hồ Trung tâm thực nghiệm, lương thực nước uống và đạn dược đều
đã cạn kiệt, cùng lúc có lệnh trên buộc đơn vị di tản khỏi căn cứ. Những chiến
sĩ Trung đoàn 53 đành phân tán trong bóng đêm, bỏ lại sau lưng trận đánh để đời
trong lịch sử Ban Mê.
Phu Nguyen.
Để tưởng nhớ hương hồn Đại tá Võ Ân TrĐT/53.
Huy hiệu Sư
đoàn 23 Bộ binh (Ảnh trên FB Phu Nguyen)
***