Tôi nhận được ba tấm thiệp báo hỉ từ gia đình cháu Ngọc
Diệp, con của cô em gái trên Đà Lạt. Tôi xin lập lại, “ba tấm thiệp báo hỉ”
chứ không phải một tấm như bình thường mà người ta thường nhận được.
Ngọc Diệp làm việc cho một ngân hàng Hàn Quốc tại Sài Gòn,
quen với Thanh Danh, người gốc Tây Ninh nhưng cũng làm việc ở Sài Gòn. Như vậy
có thể hiểu ngay là đám cưới của cháu Ngọc Diệp diễn ra tại 3 nơi: rước dâu từ
nhà gái tại Đà Lạt về nhà trai ở Tây Ninh và rồi thêm một bữa tiệc cưới tại Sài
Gòn để thết đãi bạn bè đồng nghiệp!
Đây là một đám cưới đặc biệt của thời @ có nhiều điều
đáng nói và đáng viết. Bài viết này cũng có thể coi như là món quà cưới “tinh
thần” cho hai cháu Ngọc Diệp & Thanh Danh để kỷ niệm ngày hai cháu thành
gia thất.
Tôi nghĩ, đã là kỷ niệm thì thế nào cũng đủ cả buồn lẫn
vui, có những thuận lợi cũng như trục trặc để qua đó các bạn trẻ sau này rút
kinh nghiệm. Người ta thường nói “ma chê, cưới trách”. Đám cưới thì thế nào
cũng có chuyện để mọi người bàn ra, tán vào… Nói chung, chê trách thì nhiều mà
ngợi khen thì ít.
Người xưa có câu, “tậu
trâu, cưới vợ, làm nhà…” để chỉ 3 đại sự trong một đời người. Tậu trâu là
hình ảnh tạo dựng sự nghiệp, cưới vợ hay lấy chồng là để ổn định cuộc sống tinh
thần và làm nhà là để ổn định đời sống vật chất. Thứ tự của ba đại sự đó có thể
thay đổi, chẳng hạn như có thể cưới vợ trước khi công thành danh toại, vì thế mới
có câu như trong bài hát “Trăng sáng vườn
chè” ngày nào:
“Tôi hằng khuyên sớm, khuyên trưa,
“Tôi hằng khuyên sớm, khuyên trưa,
Anh chưa thi đỗ thì
chưa… động phòng”
Các bạn trẻ ngày nay cũng có thể thay đổi trật tự “tậu
trâu, cưới vợ, làm nhà”. Có những trường hợp còn bớt đi bước cuối cùng “làm
nhà” vì trong thời buổi kinh tế khó khăn, có được một căn nhà để không phải đi ở
thuê là cả một sự cố gắng vượt bậc của cả hai người trẻ sau khi đã quyết định
đi đến hôn nhân.
Theo giải thích của tự điển Đào Duy Anh, chữ “hôn” trong
“hôn nhân” nguyên nghĩa là chiều hôm vì theo lễ tục xưa người ta làm lễ cưới
vào buổi chiều tối (?). Điều này cũng đúng vào thời nay. Tiệc cưới thường được
tổ chức vào những tối cuối tuần để khách khứa có thể đến dự đông đủ, không bị… sót
phong bì tiền mừng.
Tại các thành phố lớn, tìm được một địa điểm tổ chức tiệc
cưới cũng là cả một công trình, nhất
là vào mùa cưới khoảng cuối năm. Có khi phải “book” vài tháng trước mới
mong giữ được một chỗ vào tối cuối tuần, nếu không thì đành phải biến thành tiệc
trưa, thậm chí còn phải tổ chức vào những ngày trong tuần. Khi đó, chắc chắn khách đến dự sẽ ít đi vì
bận bịu công việc và hai họ có thể thấy trước phần “lỗ” khi bỏ tiền ra tổ chức!
Chuyện “lời lỗ” cũng còn tùy theo gia cảnh và hoàn cảnh của
tân lang và tân giai nhân. Nếu xuất thân trong gia đình quyền cao chức trọng,
các cậu ấm cô chiêu chắc chắn sẽ nhận được những phong bì dày cộm, có khi tiền
mừng nhiều quá nên phải dùng đô la thay tiền đồng. Đó là hình thức trả ơn hay
móc nối, bôi trơn cho những “phi vụ” chạy chọt trong quá khứ cũng như tương
lai…
Con cái nhà “phó thường dân” khi tổ chức tiệc cưới chỉ
mong sao “huề vốn”, không lỗ là mừng lắm rồi. Có nhiều đám cưới thậm chí còn nhận được phong bì... “khống”. Không bỏ tiền vì khách cũng nghèo hay vì
là khách thuộc loại “không mời”, chuyên đi ăn cưới… “chùa”. Nhà
trai, nhà gái cứ tưởng là khách của phía bên kia nên họ đường hoàng đến dự
tiệc với chiếc phong bì trống rỗng!
“Phú quý sinh lễ
nghĩa” rơi vào trường hợp các cậu ấm cô chiêu còn “Bần cùng sinh đạo tặc” là hoàn cảnh của con cái nhà “phó thường
dân”. Chỉ cần nhìn qua chuyện đám cưới cũng có thể thấy xã hội thời @ ngày càng
phân hóa, tiến dần đến hai cực tương phản lẫn nhau một cách khốc liệt.
Ngọc
Diệp trước lễ Vu quy
Trở lại với chuyện nhận được “ba thiệp mời đám cưới” của đứa
cháu gái, tôi hiểu đó là việc chẳng đặng đừng vì cuộc sống của hai cháu có liên
quan mật thiết đến 3 thành phố nên không thể nào bớt đi một. Tôi lại “bị” đóng
vai trò chủ hôn theo yêu cầu của cô em gái trên Đà Lạt nên cũng ở vào thế “chẳng
đặng đừng”.
Con cái sợ hai
ông bà già tuổi tác đã cao, không muốn để ngồi xe đò suốt tám tiếng nên mua vé
máy bay lên Đà Lạt vào chiều Thứ Bảy cho kịp lễ vu quy của Ngọc Diệp vào sáng
Chủ Nhật. Ban đầu, con gái tôi còn tính đi theo vì không yên tâm nhưng rồi hai
vợ chồng cháu lại quyết định lên Đà Lạt bằng xe riêng. Thế là 4 người chúng tôi
lên Đà Lạt dự lễ cưới bằng hai phương tiện di chuyển khác nhau.
Thời gian bay Sài Gòn – Đà Lạt chỉ mất 40 phút nhưng phải
mất thêm 30 phút đi từ phi trường Liên Khương về Đà Lạt. Trong bữa cơm gia đình
chiều hôm đó, mọi người duyệt qua “kịch bản” cho buổi lễ vu quy sáng mai. Phân
công rõ ràng từng chi tiết để buổi lễ ngày mai diễn ra một cách suông sẻ.
Hai
vị chủ hôn đại diện cho hai họ
Theo phong tục ngày xưa, đám cưới phải có đủ 6 lễ. (1) Lễ Nạp Thái (nhà trai mang sang nhà gái
một cặp "nhạn" để bày tỏ ý đã chọn dâu); (2) Lễ Vấn Danh (nhà trai nhờ người mai mối đến hỏi tên tuổi và ngày
sinh tháng đẻ của cô dâu); (3) Lễ Nạp Cát
(nhà trai báo cho nhà gái biết rằng đã xem được quẻ tốt để cử hành hôn lễ); (4)
Lễ Nạp Tệ (nhà trai nạp đồ sính lễ, tiền bạc cho nhà gái để chuẩn bị
lễ cưới); (5) Lễ Thỉnh Kỳ (xin định
ngày giờ rước dâu) và (6) Lễ Thân Nghinh
(tức lễ rước dâu hay lễ cưới).
Cả 6 lễ nói trên được gom lại thành duy nhất một lễ vu quy tại gia đình cô dâu Ngọc Diệp.
Thoạt mới nhìn qua thật đơn giản nhưng trên thực tế lại quá nhiêu khê vì tình
trạng cô dâu chú rể gốc người hai địa phương khác nhau lại cùng làm việc ở một địa phương thứ ba!
Trầu
cau, một trong những nâm quả không thể thiếu
Theo chương trình, sau lễ vu quy diễn ra vào 9g30 sáng Chủ
Nhật, 11g30 ăn tiệc tại nhà hàng và đến 2g sáng ngày hôm mới chính thức rước
dâu từ Đà Lạt về Tây Ninh. Giờ “hoàng đạo” do nhà trai xem là đúng ngọ ngày Thứ
Hai sẽ làm lễ tân hôn tại Tây Ninh rồi tiếp đến là tiệc cưới tại đây vào buổi
chiều.
Họ nhà gái ở lại Tây Ninh một ngày để nghỉ ngơi, đi thăm
và mua sắm tại cửa khẩu Mộc Bài, nếu thích còn có thể sang Cămpuchia thử thời vận
tại các casinos! Ngày hôm sau lên đường ra Vũng Tàu tiếp tục nghỉ ngơi trước
khi quay lại Sài Gòn dự tiệc cưới vào chiều ngày Thứ Bảy!
Đêm trước lễ vu quy tôi nhắc bố mẹ cô dâu dẫn hai con lên
nhà căn nhà gần Trại Hầm, nơi có bàn thờ bố mẹ tôi để thắp nhang xin phép cho cháu ngoại đi lấy chồng. Tôi có 2 cô
em gái còn ở tại Đà Lạt, cô em út hiện ở trong căn nhà gần Trại Hầm giữ hương hỏa
và lo nhang khói bàn thờ bố mẹ.
Việc hai cháu thắp nhang xin phép ông bà ngoại đi lấy chồng
chỉ diễn ra hơn một tiếng vừa đi vừa về nhưng thể hiện một điều thiêng liêng cần
có đối với con cháu. Chúng tôi chỉ tiếc một điều là không đủ thời gian, trời
qúa tối để ra thăm mộ song thân cũng nằm trên một ngọn đồi trong Trại Hầm.
Bố
mẹ và hai con thắp nhang xin phép ông bà ngoại
Họ nhà trai từ Tây Ninh lên Đà Lạt trước một ngày, thuê
khách sạn chỉ vài bước là có thể đến gia đình nhà gái trên đường Phan Bội Châu
ngay khu Hòa Bình. Tuy nhiên, cũng vẫn có đầy đủ đoàn xe đến rước dâu có gắn chữ
Song Hỷ (1).
Đúng 9g30 họ nhà trai đến, tôi và người đại diện nhà trai
đón nhau, trao đổi vài lời xin phép theo đúng thủ tục, khay rượu và mâm quả của
họ nhà trai được đem vào và buổi lễ vu quy cho cháu Ngọc Diệp bắt đầu.
Dù đã chuẩn bị cẩn thận, vào giờ chót vẫn không thấy thợ
chụp hình đến! Thế là máy hình của tôi được giao cho con rể đứng ra ghi lại
hình ảnh của lễ vu quy cộng thêm một máy nhỏ của em trai bố cô dâu, vị chi là 2
máy phụ trách hình ảnh cho suốt buổi lễ. Tuy ngoài “kịch bản” nhưng thôi thế
cũng tạm ổn!
Bánh
cưới
Ngay khi lên đến Đà Lạt chúng tôi đã ngỏ ý sau lễ vu quy
của cháu ngày Chủ Nhật sẽ lên xe về Sài Gòn ngay để các con kịp sáng Thứ Hai đi
làm. Cô em tôi rơm rớm nước mắt nói, “Anh
chị thương cháu thì thương cho trót, thế nào phải ra nhà hàng dự tiệc cùng hai
họ!”.
Cuối cùng cũng đành nhượng bộ vì nước mắt của cô em, chúng tôi ở lại dự “phần đầu”
bữa tiệc trưa. Cũng cần phải nói đến một điểm gây ấn tượng nhất đối với tôi
trong bữa tiệc cưới tại Đà Lạt là sáng kiến của bố cô dâu. Vốn là một họa sĩ
nên anh vẽ một thân cây chỉ có cành và không có hoa hay lá.
Bức tranh dang dở để ngay nơi bàn tiếp tân, khách đến dự
tiệc dùng ngón tay chấm màu sắc tùy thích quẹt lên cây để cuối cùng cô dâu và
chú rể có được một bức tranh kỷ niệm ngày cưới. Ý tưởng này thật lạ nhưng cũng
mang nhiều ý nghĩa. Khách dự tiệc đã cùng nhau góp sức hoàn tất một bức tranh
“quà cưới” cho cặp vợ chồng Ngọc Diệp – Thanh Danh.
Bức
tranh kỷ niệm, sáng tác của khách dành cho đôi uyên ương
Thêm một chuyện đáng ghi lại trong tiệc cưới tại Đà Lạt.
Những tưởng đến đây chẳng gặp ai quen vì đã xa thành phố sương mù bao nhiêu năm
rồi. Ấy thế mà lại được gặp lại một ông già tên Được ở ngay cạnh nhà gần Trại Hầm! Thế là hai ông già ngồi nói
chuyện với nhau quên cả việc mỏi mòn chờ tiệc cưới bắt đầu.
Hồi xưa, Được
hơn tôi 1 hay 2 tuổi, dân Petit Lycée còn tôi học trường Nam tiểu học Đà Lạt.
Hai nhà ở sát cạnh nhau, hai ông bố đều phục vụ trong Ngự Lâm Quân từ thời Bảo
Đại, tên của hai cụ đều bắt đầu bằng vần Đ, bố tôi là Điến còn bố của Được là Đắc.
Kể cũng lạ, bố tên Đắc, đặt tên con là Được! Được giải thích, anh là con “cầu tự”
nên ông cụ đặt là Được (2).
Tôi có một
tấm hình xưa từ một người bạn chụp 3 ông Ngự Lâm Quân (Les
Trois Mousquetaires!): bố của người bạn, bố tôi và bố Được. Hỏi địa
chỉ email của Được để gửi hình thì anh thú thật “mù tịt về IT”
nhưng hứa sẽ bảo con liên lạc với tôi để nhận hình. Tôi hơi ngạc nhiên vì Được
hiện nay vẫn còn làm “gia sư” kèm Anh văn cho trẻ trong xóm nhưng lại không màng đến máy tính trong thời đại
bùng nổ thông tin.
Trong bức hình dưới đây chụp khoảng năm 1953, người ngồi
góc trái tôi không biết tên, kế đó là bố tôi, bố người bạn còn giữ được tấm
hình này, anh Nguyễn Duy Lễ. Phía
bên phải là 5 người trong gia đình Được, gồm bố mẹ nay đã khuất bóng, đứng phía
sau là anh con nuôi và chị gái.
“Chú” Được bé tí teo ngồi ở bìa phải.
Một
tấm hình xưa chụp tại nhà Được
Sau thời gian dài
chờ đợi, bữa tiệc bắt đầu bằng phần nghi thức giới thiệu cô dâu, chú rể
và hai ông bà sui gia và sau đó tới
phần nhập tiệc.
Bà xã tôi và con gái lẳng
lặng xách túi vào toilet nhà hàng thay quần áo để về Sài Gòn. Tôi và con rể
trong khi chờ đợi còn được thưởng thức vài đũa của món khai vị.
Chúng tôi chạy show chẳng khác gì các nghệ sĩ trình diễn
trên sân khấu. Có điều ca sĩ chỉ chạy
quanh quẩn mấy rạp hát trong thành phố còn chúng tôi phải “chạy” một đoạn đường
hơn 300 km, đến Bảo Lộc mới dừng lại ăn trưa. Bữa ăn tại đây chắc chắn ngon hơn bữa tiệc cưới vì bụng ai cũng đói!
Trời không chiều lòng người, suốt đoạn đổ đèo Blao trời
mưa tầm tã, sương mù xuống thật thấp nên khởi hành từ Đà Lạt khoảng 1g trưa mà
mãi tới 8g tối mới về đến nhà. Cũng may, tài xế là người lái xe cẩn thận trong
suốt chuyến đi. Dạo gần đây đọc báo thấy tai nạn xe cộ xảy ra như cơm bữa trên quốc
lộ, về đến nhà mới biết là mình còn lành lặn!
Chặng thứ 2 của đám cưới “Marathon” diễn ra tại Tây Ninh
tôi không dự nhưng cô em có điện thoại cho biết họ nhà trai cất rạp, làm tiệc tại
nhà chứ không đi nhà hàng. Thường thường ở niền Tây người ta hay tổ chức như vậy.
Nhà rộng, có sân, có vườn nên là tiệc cưới “tại gia” là tiện nhất. Cũng có dịch
vụ nấu nướng, phục vụ khách nhưng rẻ hơn nhiều so với các thành phố lớn.
Cô em kể lại bầu không khí tiệc cưới rất vui, chỉ toàn họ
hàng, bà con, chòm xóm có điều hôm đó đang ăn thì bị một cơn mưa nên phải tạm ngưng,
hết mưa khách lại tiếp tục đến chiều. Thế cũng vui.
Người Tây Ninh rất thật thà, cới mở không “điệu đà” như người Đà Lạt hay Sài Gòn. Chú
rể là con út nên rất được gia đình, anh chị thương yêu. Cô dâu cũng là con út
nên cặp vợ chồng “út” này nhận được đầy đủ thương yêu từ hai họ. Vấn đề là
trong tương lai hai cháu phải làm sao đền đáp lại sự thương yêu đó.
Chặng cuối cùng là tiệc cưới Ngọc Diệp – Thanh Danh ở Sài
Gòn. Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp vì đa số khách là bạn bè của cô dâu và chú rể.
Họ đến dự một cách thoải mái, tiếng “Dzô, dzô…” vang lên liên tục từ các bàn.
Tôi nghĩ, đây là bữa tiệc ý nghĩa và mang nhiều kỷ niệm nhất đối với cả hai bạn
trẻ. Đời người chỉ có một lần!
Ngày nay, tại các thành phố lớn, việc tổ chức tiệc cưới
trở thành một “ngành công nghiệp”, có nhiều cơ sở phục vụ hôn lễ từ A đến Z. Công
việc “trọn gói” có thể kể ra như ngay từ bước đầu tiên là in thiệp báo hỉ, rồi
chụp hình trước khi cưới, quần áo cưới cho cả cô dâu lẫn chú rể và cuối cùng là
tiệc cưới tại nhà hàng.
Có những nhà hàng có đến 4 hay 5 “sảnh” tổ chức tiệc cưới
cùng một lúc khiến khách nhiều khi đi… “lộn chuồng”. Dở khóc dở cười là những
người sau khi đã ký tên, và trao phong bì mới biết là mình vào lộn đám cưới. Tốt
nhất là cứ từ từ, bình tĩnh tìm tên của cô dâu, chú rể, thường còn có cả hình của
cặp uyên ương để ngay ở bàn đón
khách.
Một phiền
phức có thể nói là muôn thuở khi dự
tiệc cưới thời @ là quãng thời gian chờ đợi. Thiệp hồng của Ngọc Diệp – Thanh
Danh có ghi đón khách vào lúc 17g, nhập tiệc lúc 17g30 thế mà mãi đến 19g30, tức
là 2 tiếng sau mới bắt đầu nghi thức tiệc cưới!
Gia đình chúng
tôi ngồi kín một bàn, có cả 3 cháu nội ngoại. Chờ đợi lâu quá các cháu than đói
bụng nên phải kiếm mấy gói snack để các cháu dằn cơn đói. Nói chung, Việt Nam
ta nổi tiếng về giờ giấc “cao su” trong mọi sinh hoạt, nhất là việc chờ đợi để
nhập tiệc cưới. Không phải lúc nào người ta cũng áp dụng lời khuyên của các cụ
xưa để lại: “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi
sau”.
Trong xã hội
ngày nay, người ta thường ca tụng “tác phong công nghiệp”, giờ giấc chính xác,
đúng bong trong công việc từ lớn đến nhỏ. Thế mà chỉ có việc tổ chức tiệc cưới
đúng giờ theo thiệp mời vẫn không thể nào thực hiện được. Câu trả lời đơn giản
chỉ nằm trong hai chữ: “Dân Trí”.
Thanh
Danh & Ngọc Diệp
===
Chú thích:
(1) Do ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa nên chữ Song Hỷ
màu đỏ xuất hiện rất nhiều, từ thiệp cưới, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè,
hạt sen, quả cau, lá trầu… Song Hỷ gắn với một giai thoại đẹp, đầy yếu tố may mắn,
trời định về tình duyên và thi cử của bậc danh sĩ nổi tiếng đời nhà Tống, Vương
An Thạch.
Năm 20 tuổi Vương An Thạch lên kinh đô ứng thí. Dọc đường,
Vương An Thạch đi qua nhà Mã Viên ngoại đang kén chồng cho con gái. Viên ngoại
là người có học nên muốn chọn rể giàu chữ làm hiền sĩ chứ không phải lắm của
nhiều tiền. Khi Vương An Thạch qua đó cũng là lúc Viên ngoại đang mở tiệc mừng
thọ, bên ngoài cổng có treo một lồng đèn kéo quân, dán một vế đối: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình
bộ” (Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).
Tại trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xuất sắc và quan
chủ khảo tấm tắc khen tài. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử tài
thêm. Thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn, trên có thêu một con hổ, Vua ra cho ông
một vế đối: “Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển
hổ tàng thân (Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).
Vương An Thạch chợt nhớ tới vế đối trên đèn kéo quân trước
nhà Mã Viên ngoại nên liền ứng khẩu đọc luôn: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”. Vua thấy Vương có
tài ứng đối mau lẹ, vế đối rất chỉnh, có ý nghĩa sâu sắc nên đã chấm Vương An Thạch đậu thủ
khoa kỳ thi đó.
Trong khi chờ đăng tên lên bảng vàng, Vương An Thạch trở
về quê nhà. Khi đi ngang qua Mã gia trang được vào nhà trình với Mã Viên ngoại.
Mã Viên ngoại yêu cầu Vương An Thạch đọc vế đối, Vương liền lấy câu của Vua ra
đọc lên thành:
Tẩu mã đăng, đăng tẩu
mã, đăng tức mã đình bộ;
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ,
kỳ quyển hổ tàng thân.
Mã Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đối rất chỉnh, rất
khéo lại ẩn ý khoe tương lai... Vương
An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, ở luôn tại nhà Mã Viên ngoại.
Triều đình đăng bảng, Vương An Thạch đậu Trạng nguyên, được gọi lên kinh đô nhậm chức. Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà đạt được một lượt hai điều vui mừng: cưới được vợ tài giỏi giàu có và đậu Trạng nguyên. Vương An Thạch bèn hứng chí ngâm nga:
“Vận may đối đáp thành song hỷ,
Cờ hổ, đèn quân kết
vợ chồng”
Sau đó lấy giấy viết hai chữ Hỷ rất to trình lên nhạc gia
và gửi về gia đình mỗi nhà một bản. Thông báo lại hai việc cực kỳ may mắn, tốt
lành là đại đăng khoa (thi đỗ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ).
Nhiều người lại nói rằng, Song Hỷ còn có nghĩa hai việc
vui mừng song song với nhau, nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được
chồng cho con gái.
Song Hỷ
(2) Xem thêm “Đà Lạt
sương mù: Đất lành chim đậu”
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống
lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà
Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và
Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng
viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng
Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện
tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề
báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những
chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang
viết tiếp một Chương cuối cùng mang tên… Thời
xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!