Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

Đám cưới thời @

Tôi nhận được ba tấm thiệp báo hỉ từ gia đình cháu Ngọc Diệp, con của cô em gái trên Đà Lạt. Tôi xin lập lại, “ba tấm thiệp báo hỉ” chứ không phải một tấm như bình thường mà người ta thường nhận được.

Ngọc Diệp làm việc cho một ngân hàng Hàn Quốc tại Sài Gòn, quen với Thanh Danh, người gốc Tây Ninh nhưng cũng làm việc ở Sài Gòn. Như vậy có thể hiểu ngay là đám cưới của cháu Ngọc Diệp diễn ra tại 3 nơi: rước dâu từ nhà gái tại Đà Lạt về nhà trai ở Tây Ninh và rồi thêm một bữa tiệc cưới tại Sài Gòn để thết đãi bạn bè đồng nghiệp!

Đây là một đám cưới đặc biệt của thời @ có nhiều điều đáng nói và đáng viết. Bài viết này cũng có thể coi như là món quà cưới “tinh thần” cho hai cháu Ngọc Diệp & Thanh Danh để kỷ niệm ngày hai cháu thành gia thất.

Tôi nghĩ, đã là kỷ niệm thì thế nào cũng đủ cả buồn lẫn vui, có những thuận lợi cũng như trục trặc để qua đó các bạn trẻ sau này rút kinh nghiệm. Người ta thường nói “ma chê, cưới trách”. Đám cưới thì thế nào cũng có chuyện để mọi người bàn ra, tán vào… Nói chung, chê trách thì nhiều mà ngợi khen thì ít.

Người xưa có câu, “tậu trâu, cưới vợ, làm nhà…” để chỉ 3 đại sự trong một đời người. Tậu trâu là hình ảnh tạo dựng sự nghiệp, cưới vợ hay lấy chồng là để ổn định cuộc sống tinh thần và làm nhà là để ổn định đời sống vật chất. Thứ tự của ba đại sự đó có thể thay đổi, chẳng hạn như có thể cưới vợ trước khi công thành danh toại, vì thế mới có câu như trong bài hát “Trăng sáng vườn chè” ngày nào:

“Tôi hằng khuyên sớm, khuyên trưa,
Anh chưa thi đỗ thì chưa… động phòng”

Các bạn trẻ ngày nay cũng có thể thay đổi trật tự “tậu trâu, cưới vợ, làm nhà”. Có những trường hợp còn bớt đi bước cuối cùng “làm nhà” vì trong thời buổi kinh tế khó khăn, có được một căn nhà để không phải đi ở thuê là cả một sự cố gắng vượt bậc của cả hai người trẻ sau khi đã quyết định đi đến hôn nhân.   

Theo giải thích của tự điển Đào Duy Anh, chữ “hôn” trong “hôn nhân” nguyên nghĩa là chiều hôm vì theo lễ tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối (?). Điều này cũng đúng vào thời nay. Tiệc cưới thường được tổ chức vào những tối cuối tuần để khách khứa có thể đến dự đông đủ, không bị… sót phong bì tiền mừng.  

Tại các thành phố lớn, tìm được một địa điểm tổ chức tiệc cưới cũng là cả một công trình, nhất là vào mùa cưới khoảng cuối năm. Có khi phải “book” vài tháng trước mới mong giữ được một chỗ vào tối cuối tuần, nếu không thì đành phải biến thành tiệc trưa, thậm chí còn phải tổ chức vào những ngày trong tuần. Khi đó, chắc chắn khách đến dự sẽ ít đi vì bận bịu công việc và hai họ có thể thấy trước phần “lỗ” khi bỏ tiền ra tổ chức!

Chuyện “lời lỗ” cũng còn tùy theo gia cảnh và hoàn cảnh của tân lang và tân giai nhân. Nếu xuất thân trong gia đình quyền cao chức trọng, các cậu ấm cô chiêu chắc chắn sẽ nhận được những phong bì dày cộm, có khi tiền mừng nhiều quá nên phải dùng đô la thay tiền đồng. Đó là hình thức trả ơn hay móc nối, bôi trơn cho những “phi vụ” chạy chọt trong quá khứ cũng như tương lai… 

Con cái nhà “phó thường dân” khi tổ chức tiệc cưới chỉ mong sao “huề vốn”, không lỗ là mừng lắm rồi. Có nhiều đám cưới thậm chí còn nhận được phong bì... “khống”. Không bỏ tiền vì khách cũng nghèo hay vì là khách thuộc loại “không mời”, chuyên đi ăn cưới… “chùa”. Nhà trai, nhà gái cứ tưởng là khách của phía bên kia nên họ đường hoàng đến dự tiệc với chiếc phong bì trống rỗng!

“Phú quý sinh lễ nghĩa” rơi vào trường hợp các cậu ấm cô chiêu còn “Bần cùng sinh đạo tặc” là hoàn cảnh của con cái nhà “phó thường dân”. Chỉ cần nhìn qua chuyện đám cưới cũng có thể thấy xã hội thời @ ngày càng phân hóa, tiến dần đến hai cực tương phản lẫn nhau một cách khốc liệt.
     
Ngọc Diệp trước lễ Vu quy

Trở lại với chuyện nhận được “ba thiệp mời đám cưới” của đứa cháu gái, tôi hiểu đó là việc chẳng đặng đừng vì cuộc sống của hai cháu có liên quan mật thiết đến 3 thành phố nên không thể nào bớt đi một. Tôi lại “bị” đóng vai trò chủ hôn theo yêu cầu của cô em gái trên Đà Lạt nên cũng ở vào thế “chẳng đặng đừng”.

Con cái sợ hai ông bà già tuổi tác đã cao, không muốn để ngồi xe đò suốt tám tiếng nên mua vé máy bay lên Đà Lạt vào chiều Thứ Bảy cho kịp lễ vu quy của Ngọc Diệp vào sáng Chủ Nhật. Ban đầu, con gái tôi còn tính đi theo vì không yên tâm nhưng rồi hai vợ chồng cháu lại quyết định lên Đà Lạt bằng xe riêng. Thế là 4 người chúng tôi lên Đà Lạt dự lễ cưới bằng hai phương tiện di chuyển khác nhau.

Thời gian bay Sài Gòn – Đà Lạt chỉ mất 40 phút nhưng phải mất thêm 30 phút đi từ phi trường Liên Khương về Đà Lạt. Trong bữa cơm gia đình chiều hôm đó, mọi người duyệt qua “kịch bản” cho buổi lễ vu quy sáng mai. Phân công rõ ràng từng chi tiết để buổi lễ ngày mai diễn ra một cách suông sẻ.         

Hai vị chủ hôn đại diện cho hai họ

Theo phong tục ngày xưa, đám cưới phải có đủ 6 lễ. (1) Lễ Nạp Thái (nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để bày tỏ ý đã chọn dâu); (2) Lễ Vấn Danh (nhà trai nhờ người mai mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của cô dâu); (3) Lễ Nạp Cát (nhà trai báo cho nhà gái biết rằng đã xem được quẻ tốt để cử hành hôn lễ); (4) Lễ Nạp Tệ (nhà trai nạp đồ sính lễ, tiền bạc cho nhà gái để chuẩn bị lễ cưới); (5) Lễ Thỉnh Kỳ (xin định ngày giờ rước dâu) và (6) Lễ Thân Nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới).

Cả 6 lễ nói trên được gom lại thành duy nhất một lễ vu quy tại gia đình cô dâu Ngọc Diệp. Thoạt mới nhìn qua thật đơn giản nhưng trên thực tế lại quá nhiêu khê vì tình trạng cô dâu chú rể gốc người hai địa phương khác nhau lại cùng làm việc ở một địa phương thứ ba!

Trầu cau, một trong những nâm quả không thể thiếu

Theo chương trình, sau lễ vu quy diễn ra vào 9g30 sáng Chủ Nhật, 11g30 ăn tiệc tại nhà hàng và đến 2g sáng ngày hôm mới chính thức rước dâu từ Đà Lạt về Tây Ninh. Giờ “hoàng đạo” do nhà trai xem là đúng ngọ ngày Thứ Hai sẽ làm lễ tân hôn tại Tây Ninh rồi tiếp đến là tiệc cưới tại đây vào buổi chiều.

Họ nhà gái ở lại Tây Ninh một ngày để nghỉ ngơi, đi thăm và mua sắm tại cửa khẩu Mộc Bài, nếu thích còn có thể sang Cămpuchia thử thời vận tại các casinos! Ngày hôm sau lên đường ra Vũng Tàu tiếp tục nghỉ ngơi trước khi quay lại Sài Gòn dự tiệc cưới vào chiều ngày Thứ Bảy!

Đêm trước lễ vu quy tôi nhắc bố mẹ cô dâu dẫn hai con lên nhà căn nhà gần Trại Hầm, nơi có bàn thờ bố mẹ tôi để thắp nhang xin phép cho cháu ngoại đi lấy chồng. Tôi có 2 cô em gái còn ở tại Đà Lạt, cô em út hiện ở trong căn nhà gần Trại Hầm giữ hương hỏa và lo nhang khói bàn thờ bố mẹ.  

Việc hai cháu thắp nhang xin phép ông bà ngoại đi lấy chồng chỉ diễn ra hơn một tiếng vừa đi vừa về nhưng thể hiện một điều thiêng liêng cần có đối với con cháu. Chúng tôi chỉ tiếc một điều là không đủ thời gian, trời qúa tối để ra thăm mộ song thân cũng nằm trên một ngọn đồi trong Trại Hầm.  
       
Bố mẹ và hai con thắp nhang xin phép ông bà ngoại

Họ nhà trai từ Tây Ninh lên Đà Lạt trước một ngày, thuê khách sạn chỉ vài bước là có thể đến gia đình nhà gái trên đường Phan Bội Châu ngay khu Hòa Bình. Tuy nhiên, cũng vẫn có đầy đủ đoàn xe đến rước dâu có gắn chữ Song Hỷ (1).  

Đúng 9g30 họ nhà trai đến, tôi và người đại diện nhà trai đón nhau, trao đổi vài lời xin phép theo đúng thủ tục, khay rượu và mâm quả của họ nhà trai được đem vào và buổi lễ vu quy cho cháu Ngọc Diệp bắt đầu.

Dù đã chuẩn bị cẩn thận, vào giờ chót vẫn không thấy thợ chụp hình đến! Thế là máy hình của tôi được giao cho con rể đứng ra ghi lại hình ảnh của lễ vu quy cộng thêm một máy nhỏ của em trai bố cô dâu, vị chi là 2 máy phụ trách hình ảnh cho suốt buổi lễ. Tuy ngoài “kịch bản” nhưng thôi thế cũng tạm ổn!


Bánh cưới

Ngay khi lên đến Đà Lạt chúng tôi đã ngỏ ý sau lễ vu quy của cháu ngày Chủ Nhật sẽ lên xe về Sài Gòn ngay để các con kịp sáng Thứ Hai đi làm. Cô em tôi rơm rớm nước mắt nói, “Anh chị thương cháu thì thương cho trót, thế nào phải ra nhà hàng dự tiệc cùng hai họ!”.

Cuối cùng cũng đành nhượng bộ vì nước mắt của em, chúng tôi ở lại dự “phần đầu” bữa tiệc trưa. Cũng cần phải nói đến một điểm gây ấn tượng nhất đối với tôi trong bữa tiệc cưới tại Đà Lạt là sáng kiến của bố cô dâu. Vốn là một họa sĩ nên anh vẽ một thân cây chỉ có cành và không có hoa hay lá.

Bức tranh dang dở để ngay nơi bàn tiếp tân, khách đến dự tiệc dùng ngón tay chấm màu sắc tùy thích quẹt lên cây để cuối cùng cô dâu và chú rể có được một bức tranh kỷ niệm ngày cưới. Ý tưởng này thật lạ nhưng cũng mang nhiều ý nghĩa. Khách dự tiệc đã cùng nhau góp sức hoàn tất một bức tranh “quà cưới” cho cặp vợ chồng Ngọc Diệp – Thanh Danh.  

Bức tranh kỷ niệm, sáng tác của khách dành cho đôi uyên ương

Thêm một chuyện đáng ghi lại trong tiệc cưới tại Đà Lạt. Những tưởng đến đây chẳng gặp ai quen vì đã xa thành phố sương mù bao nhiêu năm rồi. Ấy thế mà lại được gặp lại một ông già tên Được ở ngay cạnh nhà gần Trại Hầm! Thế là hai ông già ngồi nói chuyện với nhau quên cả việc mỏi mòn chờ tiệc cưới bắt đầu.

Hồi xưa, Được hơn tôi 1 hay 2 tuổi, dân Petit Lycée còn tôi học trường Nam tiểu học Đà Lạt. Hai nhà ở sát cạnh nhau, hai ông bố đều phục vụ trong Ngự Lâm Quân từ thời Bảo Đại, tên của hai cụ đều bắt đầu bằng vần Đ, bố tôi là Điến còn bố của Được là Đắc. Kể cũng lạ, bố tên Đắc, đặt tên con là Được! Được giải thích, anh là con “cầu tự” nên ông cụ đặt là Được (2).

Tôi một tấm hình xưa từ một người bạn chụp 3 ông Ngự Lâm Quân (Les Trois Mousquetaires!): bố của người bạn, bố tôi và bố Được. Hỏi địa chỉ email của Được để gửi hình thì anh thú thật mù tịt về IT nhưng hứa sẽ bảo con liên lạc với tôi để nhận hình. Tôi hơi ngạc nhiên vì Được hiện nay vẫn còn làm “gia sư” kèm Anh văn cho trẻ trong xóm nhưng lại không màng đến máy tính trong thời đại bùng nổ thông tin.

Trong bức hình dưới đây chụp khoảng năm 1953, người ngồi góc trái tôi không biết tên, kế đó là bố tôi, bố người bạn còn giữ được tấm hình này, anh Nguyễn Duy Lễ. Phía bên phải là 5 người trong gia đình Được, gồm bố mẹ nay đã khuất bóng, đứng phía sau là anh con nuôi và chị gái.Chú” Được bé tí teo ngồi ở bìa phải.    

Một tấm hình xưa chụp tại nhà Được

Sau thời gian dài chờ đợi, bữa tiệc bắt đầu bằng phần nghi thức giới thiệu cô dâu, chú rể và hai ông bà sui gia và sau đó tới phần nhập tiệc. Bà xã tôi và con gái lẳng lặng xách túi vào toilet nhà hàng thay quần áo để về Sài Gòn. Tôi và con rể trong khi chờ đợi còn được thưởng thức vài đũa của món khai vị.

Chúng tôi chạy show chẳng khác gì các nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu. Có điều ca sĩ  chỉ chạy quanh quẩn mấy rạp hát trong thành phố còn chúng tôi phải “chạy” một đoạn đường hơn 300 km, đến Bảo Lộc mới dừng lại ăn trưa. Bữa ăn tại đây chắc chắn ngon hơn bữa tiệc cưới vì bụng ai cũng đói!  

Trời không chiều lòng người, suốt đoạn đổ đèo Blao trời mưa tầm tã, sương mù xuống thật thấp nên khởi hành từ Đà Lạt khoảng 1g trưa mà mãi tới 8g tối mới về đến nhà. Cũng may, tài xế là người lái xe cẩn thận trong suốt chuyến đi. Dạo gần đây đọc báo thấy tai nạn xe cộ xảy ra như cơm bữa trên quốc lộ, về đến nhà mới biết là mình còn lành lặn!     
  
Chặng thứ 2 của đám cưới “Marathon” diễn ra tại Tây Ninh tôi không dự nhưng cô em có điện thoại cho biết họ nhà trai cất rạp, làm tiệc tại nhà chứ không đi nhà hàng. Thường thường ở niền Tây người ta hay tổ chức như vậy. Nhà rộng, có sân, có vườn nên là tiệc cưới “tại gia” là tiện nhất. Cũng có dịch vụ nấu nướng, phục vụ khách nhưng rẻ hơn nhiều so với các thành phố lớn.

Cô em kể lại bầu không khí tiệc cưới rất vui, chỉ toàn họ hàng, bà con, chòm xóm có điều hôm đó đang ăn thì bị một cơn mưa nên phải tạm ngưng, hết mưa khách lại tiếp tục đến chiều. Thế cũng vui.

Người Tây Ninh rất thật thà, cới mở không “điệu đà” như người Đà Lạt hay Sài Gòn. Chú rể là con út nên rất được gia đình, anh chị thương yêu. Cô dâu cũng là con út nên cặp vợ chồng “út” này nhận được đầy đủ thương yêu từ hai họ. Vấn đề là trong tương lai hai cháu phải làm sao đền đáp lại sự thương yêu đó.


Chặng cuối cùng là tiệc cưới Ngọc Diệp – Thanh Danh ở Sài Gòn. Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp vì đa số khách là bạn bè của cô dâu và chú rể. Họ đến dự một cách thoải mái, tiếng “Dzô, dzô…” vang lên liên tục từ các bàn. Tôi nghĩ, đây là bữa tiệc ý nghĩa và mang nhiều kỷ niệm nhất đối với cả hai bạn trẻ. Đời người chỉ có một lần!

Ngày nay, tại các thành phố lớn, việc tổ chức tiệc cưới trở thành một “ngành công nghiệp”, có nhiều cơ sở phục vụ hôn lễ từ A đến Z. Công việc “trọn gói” có thể kể ra như ngay từ bước đầu tiên là in thiệp báo hỉ, rồi chụp hình trước khi cưới, quần áo cưới cho cả cô dâu lẫn chú rể và cuối cùng là tiệc cưới tại nhà hàng.

Có những nhà hàng có đến 4 hay 5 “sảnh” tổ chức tiệc cưới cùng một lúc khiến khách nhiều khi đi… “lộn chuồng”. Dở khóc dở cười là những người sau khi đã ký tên, và trao phong bì mới biết là mình vào lộn đám cưới. Tốt nhất là cứ từ từ, bình tĩnh tìm tên của cô dâu, chú rể, thường còn có cả hình của cặp uyên ương để ngay ở bàn đón khách.

Một phiền phức có thể nói là muôn thuở khi dự tiệc cưới thời @ là quãng thời gian chờ đợi. Thiệp hồng của Ngọc Diệp – Thanh Danh có ghi đón khách vào lúc 17g, nhập tiệc lúc 17g30 thế mà mãi đến 19g30, tức là 2 tiếng sau mới bắt đầu nghi thức tiệc cưới!

Gia đình chúng tôi ngồi kín một bàn, có cả 3 cháu nội ngoại. Chờ đợi lâu quá các cháu than đói bụng nên phải kiếm mấy gói snack để các cháu dằn cơn đói. Nói chung, Việt Nam ta nổi tiếng về giờ giấc “cao su” trong mọi sinh hoạt, nhất là việc chờ đợi để nhập tiệc cưới. Không phải lúc nào người ta cũng áp dụng lời khuyên của các cụ xưa để lại: “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”.

Trong xã hội ngày nay, người ta thường ca tụng “tác phong công nghiệp”, giờ giấc chính xác, đúng bong trong công việc từ lớn đến nhỏ. Thế mà chỉ có việc tổ chức tiệc cưới đúng giờ theo thiệp mời vẫn không thể nào thực hiện được. Câu trả lời đơn giản chỉ nằm trong hai chữ: “Dân Trí”.

Thanh Danh & Ngọc Diệp

===

Chú thích:

(1) Do ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa nên chữ Song Hỷ màu đỏ xuất hiện rất nhiều, từ thiệp cưới, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè, hạt sen, quả cau, lá trầu… Song Hỷ gắn với một giai thoại đẹp, đầy yếu tố may mắn, trời định về tình duyên và thi cử của bậc danh sĩ nổi tiếng đời nhà Tống, Vương An Thạch.

Năm 20 tuổi Vương An Thạch lên kinh đô ứng thí. Dọc đường, Vương An Thạch đi qua nhà Mã Viên ngoại đang kén chồng cho con gái. Viên ngoại là người có học nên muốn chọn rể giàu chữ làm hiền sĩ chứ không phải lắm của nhiều tiền. Khi Vương An Thạch qua đó cũng là lúc Viên ngoại đang mở tiệc mừng thọ, bên ngoài cổng có treo một lồng đèn kéo quân, dán một vế đối: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” (Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).

Tại trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xuất sắc và quan chủ khảo tấm tắc khen tài. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử tài thêm. Thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn, trên có thêu một con hổ, Vua ra cho ông một vế đối: “Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân (Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).

Vương An Thạch chợt nhớ tới vế đối trên đèn kéo quân trước nhà Mã Viên ngoại nên liền ứng khẩu đọc luôn: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”. Vua thấy Vương có tài ứng đối mau lẹ, vế đối rất chỉnh, có ý nghĩa sâu sắc nên đã chấm Vương An Thạch đậu thủ khoa kỳ thi đó.

Trong khi chờ đăng tên lên bảng vàng, Vương An Thạch trở về quê nhà. Khi đi ngang qua Mã gia trang được vào nhà trình với Mã Viên ngoại. Mã Viên ngoại yêu cầu Vương An Thạch đọc vế đối, Vương liền lấy câu của Vua ra đọc lên thành:

Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ;
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân.

Mã Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đối rất chỉnh, rất khéo lại ẩn ý khoe tương lai... Vương An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, ở luôn tại nhà Mã Viên ngoại.

Triều đình đăng bảng, Vương An Thạch đậu Trạng nguyên, được gọi lên kinh đô nhậm chức. Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà đạt được một lượt hai điều vui mừng: cưới được vợ tài giỏi giàu có và đậu Trạng nguyên. Vương An Thạch bèn hứng chí ngâm nga:

Vận may đối đáp thành song hỷ,
Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng

Sau đó lấy giấy viết hai chữ Hỷ rất to trình lên nhạc gia và gửi về gia đình mỗi nhà một bản. Thông báo lại hai việc cực kỳ may mắn, tốt lành là đại đăng khoa (thi đỗ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ).

Nhiều người lại nói rằng, Song Hỷ còn có nghĩa hai việc vui mừng song song với nhau, nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái.

Song Hỷ

(2) Xem thêm “Đà Lạt sương mù: Đất lành chim đậu”

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.         Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.         Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.         Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.         Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.         Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.         Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.         Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.         Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.         Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!


4 nhận xét:

  1. Lâu không thấy bài viết, giờ mới hay anh lại về VN mần chủ hôn, hihi.
    Chúc nhiều niềm vui trong lần thăm quê mình nghen anh Chính.

    Trả lờiXóa
  2. Những mô tả như thế này về sau lại trở thành một tư liệu quý. Chuyện "công nghệ cưới" ở VN trở thành chuyện dài và có lẽ điều HN nản lòng nhất khi đi dự tiệc cưới là dạ dày và lổ tai mình bị tra tấn đến tàn nhẫn, khó chịu nhất là tiếng hô "Một, hai, ba Zô..." hình như miền Nam ngày xưa không có chuyện chúc mừng đậm màu sắc xung phong khi công đồn này??

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết hay lắm, một tài liệu rất quý về văn hóa Việt Nam.
    .............................................................
    Mr Hùng - Chuyên chụp hình cưới tại studio Jerry Khnag.
    Keyword: Dịch vụ chụp hình cưới tại Studio JerryKhang

    Trả lờiXóa

Popular posts