Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

Phóng Sinh, Cô Hồn và Vàng Mã!

Đây là một truyện hư cấu được ghi lại sau một giấc mơ. Người viết hoàn toàn không chịu trách nhiệm về độ chính xác của câu chuyện cũng như sự suy diễn của người đọc trong thời buổi Tháng 7 mà dân gian thường gọi là Tháng Cô Hồn!

Trong giấc mơ, bỗng hiện lên một đoạn văn mà tôi đọc rất rõ từng chữ, từng dấu chấm phẩy, từng dấu chấm câu và ngay cả từng ngoặc kép:

“Lũ cá đang nằm trong những bịch nylon còn lũ chim chen chúc trong lồng trước sự hiện diện của một lũ chúng sinh, trong đó có cả những người tu hành. Họ lâm râm cầu khấn trong một nghi thức Phóng Sinh để cầu Phước cho mình và cho cả những người thân trong gia đình.

 

Phóng sinh cá

 

“Rồi những con chim, con cá được trả về môi trường sống sau khi đã bị những kẻ “chuyên nghiệp” lùa vào lồng, vào chậu để được Phóng Sinh bởi những kẻ bỏ tiền ra mua lại mạng sống của chúng. Ở đâu đó trên giòng sông hay trên bầu trời cũng lại có những kẻ sẵn sàng “cứu vớt chúng một lần nữa” để tiếp tục kiếp Luân Hồi của việc Phóng Sinh!

 

Chim phóng sinh

 

“Trước cửa nhà của một số người có những chiếc bàn nhỏ trên đó hương hoa, gạo muối, tiền giấy và thậm chí cả một con gà luộc. Họ xì xụp khấn vái những “cô hồn đã chết nhưng vẫn còn vất vưởng trên cõi hồng trần”. Trong khi đó, “những cô hồn sống” chầu chực xung quanh để... “cướp”. Thậm chí chưa cúng xong, bàn thờ đã bị cướp!

“Số người trách “cô hồn sống” thì ít nếu so với những lời chê bai những kẻ bày ra “chuyện trái tai, gai mắt”. Người sống cũng khổ nên ta vẫn thông cảm với sự thiếu thốn phải làm những chuyện “chẳng đặng đừng” nhưng người giàu có bày chi những cảnh “gợi lòng tham”?

 

Cô hồn sống... chầu chực

 

“Không ai muốn làm “cô hồn” mà thậm chí còn bị gọi mỉa mai là “cô hồn sống”! Đức Phật cũng chưa hề cổ súy việc Phóng Sinh hay Đốt Vàng Mã theo cách như hiện nay. Thả chim phóng sinh nhiều khi lại gây nên Nghiệp Sát. Cá vừa thả xuống bên này sông thì đã có ở bên kia sông những người dùng vợt để bắt!

“Phóng Sinh là lòng nhân từ cao cả nên nó phải được thực hiện bởi một tấm lòng bất vụ lợi. Phóng sinh để cầu sống lâu, để giải trừ bệnh tật… vô tình đã mắc vào chuyện khởi phát lòng tham. Làm sao đi đúng tinh thần nhân văn cao cả của Phật giáo? Hiện nay, nét đẹp văn hóa này đang bị biến tướng thành hủ tục, mê tín dị đoan?

“Đó là chưa kể đã có những vụ cháy nhà do đốt vàng mã cúng Rằm tháng Bảy, tiễn ông Công ông Táo chầu trời ngay trước nhà khiến nhiều người thiệt mạng. Điều lành chưa thấy đâu mà chuyện dữ đã ập đến một cách “quả báo nhãn tiền”.

 

Dùng tiền thật… đốt tiền giả

 

“Theo con số thống kê chưa đầy đủ, trung bình mỗi năm có hơn 20 triệu gia đình ở Việt Nam thường xuyên mua sắm, đốt vàng mã. Mỗi dịp Lễ, Tết, trung bình một gia đình chi vài chục ngàn đến vài trăm ngàn, thậm chí vài triệu, vài chục triệu để mua vàng mã. Ước tính, mỗi năm người dân Việt Nam chi khoảng 5.800 tỷ đồng để mua vàng mã, tương đương với 60.000 tấn vàng mã!

“Cũng với số tiền này, nếu đem san sẻ với những người tàn tật, những người nghèo… thì đã có hàng ngàn, hàng vạn người đã kéo dài được sự sống, không phải gửi thân xác vào cõi hư vô vì không có tiền chữa bệnh. Đó là Lòng Từ Thiện Tại Tâm, từ thiện bất vụ lợi!

 

Phóng sinh có đem lại Phúc đức?

 *** 

--> Read more..

Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2022

Nhà giáo một thời nhếch nhác – Nhật Tiến

Người ta thường biết đến Nhật Tiến (1936-2020) là một nhà văn – nhà báo “di cư” khá nổi tiếng tại Việt Nam, nổi bật nhất là tác phẩm “Thềm hoang” do Đời Nay xuất bản năm 1961. Tác phẩm này đã nhận được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc 1962 dưới thời VNCH. 

Khi nhà văn Nhất Linh cho ra đời tạp chí “Văn hóa Ngày nay” tại Hà Nội, Nhật Tiến đã cộng tác ngay từ số đầu tiên. Vào Đà Lạt, ông đã viết cho nhiều báo, làm Chủ biên nhà xuất bản Huyền Trân và Chủ bút tuần báo Thiếu Nhi từ năm 1972 đến năm 1975 do nhà Khai Trí của ông Nguyễn Hùng Trương xuất bản.

Có một mảng tương đối khuất của Nhật Tiến mà ít người biết đến là ông đã từng là nhà giáo, dạy môn Lý-Hóa tại các tư thục ở Sài Gòn, trong đó có trường Hưng Đạo sau năm 1975. Đến năm 1979 ông “vượt biên” qua Thái Lan, một năm sau ông định cư tại California. Nhật Tiến từ trần ngày 14/9/2020 tại thành phố Irvine, California, hưởng thọ 84 tuổi.

 

Nhà văn & Nhà giáo Nhật Tiến (1936-2020)

 

Bài viết này chỉ xoay quanh cuộc đời nhà giáo của Nhật Tiến từ những ngày đầu mới “giải phóng”, qua đó ông hồi tưởng lại cái thời mà người ta gọi là “điêu linh” đối với người miền Mam khi phải tiếp xúc với người miền Bắc. Có thể nói, tư tưởng giáo dục của hai miền có nhiều nét khác nhau đến độ không những đối lập mà còn “cười ra nước mắt!”

Nhật Tiến nhìn nhận một sự thật là cho đến nay, chưa có một cuốn hồi ký nào của một nhà giáo viết về sinh hoạt của thầy trò sau tháng 4/1975. Hầu như nếu có thì cũng chỉ là những bài viết ngắn, được thu gọn trong một vài vụ việc đáng ghi nhớ mà tác giả viết ra để đóng góp cho một tờ báo vào một dịp đặc biệt nào đó.

Câu hỏi được đặt ra là có thực sự cần thiết để viết lại những điều như thế hay không? Câu trả lời là “Rất cần!”. Bởi vì đó là cội nguồn của sự tróc gốc đạo đức sẽ diễn ra trong xã hội những năm sau đó.

Khi nền tảng của chính sách giáo được dựa trên những điều giả trá, những mưu toan ngoài giáo dục lại được điều hành bởi những đầu óc thiển cận, hẹp hòi, đầy tự kiêu, tự mãn thì thành quả của giáo dục sẽ ra sao, ai cũng có thể thấy trước được.

Thấy mà chằng ai dám nói ra, có khi còn góp phần phụ họa làm cho bộ mặt giáo dục ngày càng thêm thảm hại mà chứng cớ cụ thể là sự tuột dốc về đạo đức xã hội ngày nay đã hiện ra rành rành.

Bởi vì nó đã trổ hoa, kết trái, và tiết ra nhiều độc tố hơn là hương thơm sau nhiều chục năm được vun trồng. Ông viết:

“... trước khi được gọi là nhà văn thì tôi đã là một nhà giáo. Trong suốt cuộc đời dạy học, tôi đã trải qua nhiều ngôi trường tại nhiều địa phương và giảng dạy cho nhiều thế hệ học trò. Rồi khi ngành giáo dục mà tôi theo đuổi, do vận nước mà bị nổi trôi theo thời cuộc thì tôi cũng vẫn còn đeo đẳng với nó để rồi lại cũng bị nổi trôi theo.

...

“Khi thời thế thay đổi, nhất lại là sự thay đổi từ ý thức hệ này qua ý thức hệ khác thì hầu như mọi vốn liếng tinh thần của nhà giáo, tưởng sẽ tồn tại lâu dài với những chuấn mực vốn đã trở thành truyền thống lâu đời, thì nay đã hoàn toàn bị đảo lộn, bị trốc gốc, đến độ như tôi đã có cảm giác rằng mình phải kiêm nhiệm cùng một lúc cả hai vai trò: vừa là thầy giảng dạy, vừa là tên học trò cứ bị nhà trường uốn nắn thường xuyên từ tác phong, cử chỉ cho đến lời ăn tiếng nói...

(hết trích)

 

Nhật Tiến tại tòa soạn “Thiếu Nhi” trước 1975

 

Trải qua 4 năm đầu tiên dưới mái nhà  trường Xã hội Chủ nghĩa, ông đã thấy rằng ở đấy người ta không những không trang bị điều gì tốt đẹp thêm cho nhận thức của nhà giáo, mà tệ hơn, lại còn không cho phép các thầy các cô được làm trọn vẹn vai trò của một nhà giáo đúng nghĩa.

“Đến nỗi trong nhiều năm sau này, đã có nhiều đêm choàng tỉnh dậy, tôi thảng thốt thấy như mình vẫn còn đang dẫn dắt một đám học trò lếch thếch đi khuân từng bó trúc mua ở các hợp tác xã đem về trường để cả thầy lẫn trò đều miệt mài biểu diễn việc sản xuất mành mành trúc trong những giờ học chính thức, được gọi là giờ lao động sản xuất.

“Và cũng có nhiều hôm tôi choàng tỉnh sau một cơn mơ thấy mình đang ngồi chen chúc với các đồng nghiệp khác trong một ngôi trường chật chội, nóng bức vào mùa hè để nghe những lời giáo huấn của thuyết trình viên mà chúng tôi đều biết rằng ngay cả chính anh ta cũng đang nghĩ là mình đang nói dối.

“Người nói, người nghe cùng có khả năng nhận biết đó là những màn kịch giả trá, nhưng chẳng ai dám nói ra. Nói sao được khi toàn thể đời sống đã bị bao vây bằng đủ mọi hình thức, khắp mọi nơi, lúc nào cũng có cảm giác như đang bị rình rập, dòm ngó, nghi ngờ, và cứ sểnh ra là sẽ bị báo cáo lên Phường, lên Quận, lên Ban Giám Hiệu nhà trường để nhẹ thì bị khiển trách, bị kỷ luật, nặng hơn dám có thể đi tù.

(hết trích)

Cũng may mà bộ môn giảng dạy của Nhật Tiến trong nhà trường không phải là môn Văn, môn chính mà ông đã từng phụ trách ở nhiều tư thục hồi trước 1975 mà là môn Vật Lý và Hóa Học. Nhờ tính cách khoa học của hai môn này nên ông được chấp nhận dễ dàng khi quay trở về trường cũ “đăng ký giảng dạy”.

Dạy văn thì phải là người thầy được đào tạo ở miền Bắc. Theo mô tả của Nhật Tiến, đây là một cô giáo điển hình:

“Cô trạc khoảng ngoài ba mươi, đến từ miền Bắc, ăn mặc rất giản dị tứ thời chỉ có chiếc áo sơ-mi trắng và cái quần dài đen. Tóc cô cắt ngắn đủ che sau gáy và hai bên tai. Khuôn mặt của cô hơi thô, mang vẻ cứng cáp, dằn dõi nên hơi thiếu cái nét truyền cảm của nữ tính. Ít khi tôi thấy cô cười dù chỉ là một nụ cười góp trong một đám đông trò chuyện ồn ào. Cô không ưa giao dịch, cũng không dòm ngó hay soi mói ai. Nhìn bề ngoài, tôi thấy cô tỏ vẻ miễn cưỡng mỗi khi được xếp đứng chung trong hàng ngũ của đám cán bộ nhà trường. Cái tâm lý này cũng dễ hiểu vì tôi cũng đã rõ tâm trạng của nhiều người như cô: So khả năng với đám giáo viên chế độ cũ thì quả là mình yếu kém, nhưng so về thành tích chiến thắng thì bọn họ lại thua xa. Hẳn sự giằng co giữa hai trạng thái đối nghịch này đã khiến cho cô cứ như phải nhấp nhổm, dè chừng để đối phó với ngay chính bản thân mình...”

Trong mấy tuần lễ đầu, lớp học của Nhật Tiến chỉ lác đác có vài đứa học trò vốn là con em cán bộ từ xa tới, còn hầu hết đều là những học sinh miền Nam cũ. Đứng trên bục giảng, nếu mắt không chạm phải tấm biểu ngữ nền đỏ chữ vàng treo ở bức tường phía cuối lớp thì ông vẫn tưởng như mình đang giảng dạy trong một lớp học của hai năm trước đó.

Nhưng cái cảm giác này bị tan biến đi ngay vì ông biết rất rõ biểu ngữ này trên có chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã nghiễm nhiên thay thế cho hàng chữ “Tiên học Lễ, hậu học Văn” vốn ngự trị ở đó từ hàng chục năm qua. Hồi đầu hè, đã có lần ông hỏi một thầy trong “Hội Nhà giáo Yêu nước” là tại sao lại xóa bỏ câu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” thì thầy nhún vai trả lời “tàn dư lạc hậu, hay ho gì cái thứ lễ nghĩa đó”. 

Một kỷ niệm sau ngày khai giảng niên học được ít bữa thì bỗng có hôm ông nhìn thấy một ông cán bộ cứ đứng ngoài hành lang phía xa xa ngó vào lớp học. Ông này không phải nhân viên nhà trường nên có lẽ ông ta là một phụ huynh học sinh, chắc ông băn khoăn không biết con mình theo học ở trường mới, lớp mới, lại ở trong Sài Gòn hoàn toàn xa lạ nên không biết nó sẽ học hành ra sao.

Kể từ lúc Nhật Tiến bước vào lớp, tất cả học trò đều đứng dậy và chỉ ngồi xuống khi ông vẫy tay cho phép ngồi. Rồi qua các “khâu” gọi học trò trả bài, đến sửa bài tập kỳ trước rồi giảng bài mới, hình như ông cán bộ đã tới nhiều lần để quan sát được nhiều giai đoạn khác nhau.

Cho đến một hôm, vào giờ tan học, ông “phụ huynh” gặp Nhật Tiến ngoài cổng trường và dưới đây là đối thoại:

“- Chào thầy. Tôi là phụ huynh của con bé ngồi bàn đầu trong lớp của thầy.

Tôi “à” lên một tiếng và nói:

- Tôi biết rồi. Trò ấy tên Loan.

- Vâng, thưa thầy. Cháu Loan nhà tôi trình độ có thấp, mọi sự trông nhờ ở thầy.

Tôi vội vã đáp:

- Xin ông cứ yên tâm. Học sinh trong lớp, tôi biết rõ từng đứa và đứa nào cũng được quan tâm.

Ông ta cũng hấp tấp nói:

- Tôi biết... tôi biết... Tôi đã quan sát cung cách sinh hoạt ở các lớp học trong này. Tôi thấy mọi sự đi vào nề nếp đúng như chúng tôi mong mỏi... ở ngoài Bắc, chưa được như thế đâu.

Nói xong, ông ta ngừng lại nhìn trước, ngó sau rồi lại tiếp:

- Cái nề nếp ấy mong các thầy cô cứ giữ được mãi.

(hết trích)

 

Tác phẩm của nhà văn Nhật Tiến

 

Có rất nhiều từ ngữ thoạt đầu nghe có vẻ “chối tai” nhưng riết rồi cũng quen đi trong môi trường giáo dục mới. Chẳng hạn như “đứng lớp” đối với thầy cô nghiễm nhiên trở thành một từ ngữ thông dụng hàng ngày. Ngày trước nói dạy học “một giờ” thì bây giờ đổi là “đứng lớp một tiết”.

Các nhà giáo dục của Nhà nước phân biệt rạch ròi. Bởi khi ta nói dạy 1 giờ nhưng có bao giờ thầy giáo vào lớp dạy đủ 1 giờ đâu? Nội việc khi có kẻng đầu giờ, nào thu xếp tài liệu, nào sắp xếp cặp táp rồi di chuyển từ lớp này qua lớp kia cũng mất của học trò 5, 7 phút rồi. Vậy phải gọi là một “tiết” thì mới hợp lẽ công bằng!

Thế còn “phụ đạo” là gì? Hồi mới nghe “Ban Giám hiệu” nói, Nhật Tiến có hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi ông hiểu ngay rằng đấy là công việc nhà giáo phải tình nguyện dạy thêm giờ cho những học trò “cá biệt” tức là đám học trò có thành  tích nghịch như ma, lười học như quỷ.

Sang đến vụ soạn “giáo án” thì mới thật là nỗi kinh hoàng của đám giáo viên mới bước chân vào nhà trường mới. Thật ra, nó cũng chỉ là sự soạn bài mà ai đã đi dạy học mà chẳng phải soạn bài. Đây là công việc âm thầm của riêng mỗi cá nhân thầy hay cô giáo. Tức là tùy theo cung cách trình bày bài giảng của mỗi người, mạnh ai nấy soạn, chẳng phải trình ai, chẳng phải chờ ai thông qua.

Nhưng bây giờ, khi nói đến “giáo án” là nói đến những nguyên tắc chỉ đạo, đến những mục đích yêu cầu, đến những trình tự sinh hoạt từng phút của thầy và trò trong lớp học. Thậm chí thầy sẽ hỏi trò cái gì, câu giải đáp của thầy ra sao, lại còn cả cái vụ dự trù học trò hỏi quàng xiên thế này thế khác, thầy cũng phải tính sẵn câu đối phó để trả lời.

Mấy chữ “đồng chí” thì chỉ có Ban Giám hiệu hay Chi đoàn Thanh niên trong trường là dùng nhiều nhất chứ thầy cô có ra “bưng” ngày nào đâu mà xưng hô “đồng chí” với nhau được!

Ấy vậy mà ông Hiệu trưởng mới đổi về, không cần giới thiệu cũng biết ông ta là gốc bộ đội vừa được chuyển ngành. Trong cương vị Hiệu trưởng một trường Trung học, ông ta vẫn mặc bộ quần áo bộ đội tới trường để điều hành công việc. Hơn thế nữa, bên hông ông ta lúc nào cũng kè kè một khẩu súng lục với những phát biểu đại loại như:

- Các “đồng chí” phải ráng phấn đấu để trở thành người giáo viên gương mẫu của nhà trường Xã hội Chủ nghĩa.

- Các “đồng chí” cũng nên nhớ rằng “nhà nước chuyên chính vô sản” sẵn sàng đập tan mọi âm mưu bạo loạn của bọn phản động, tàn dư của bè lũ tay sai nước ngoài để bảo vệ vững chắc nhà nước Xã hội Chủ nghĩa.

- Chúng ta dân chủ với mọi “đồng chí”, nhưng dứt khoát là phải “chuyên chính” với mọi tàn dư phản động.

- Các “đồng chí” nên nhớ dạy theo đúng sách giáo khoa với “giáo án” đi kèm chính là một Pháp Lệnh. Ai không tuân thủ Pháp Lệnh là chống đối Nhà Nước, là phản động, là bán nước!

Học trò cũng có “những gương mặt lạ”. Đó là những con em cán bộ từ miền Bắc vào và được xếp lớp theo tiêu chuẩn: lớp 7 ngoài Bắc thì vào ngồi lớp 9 và lớp 8 leo lên lớp 10. Lý do là bậc trung học của miền Bắc chỉ có 10 năm, còn trong Nam, học trò phải trải qua tới 12 năm!

Có lần Nhật Tiến phụ trách “lớp cá biệt” và ông chú ý hai học sinh: một đứa tên Sơn, trạc mười lăm, nước da đen đủi, đầu tóc bờm sờm và quần áo đã rách rưới lại còn hôi hám đến kinh người. Sơn là con của một người lính “chế độ cũ” tử trận những ngày cuối cùng của tháng 4/75.

Ngồi bên cạnh Sơn là thằng Tửu, ít tuổi hơn nó, quần áo tề chỉnh hơn, nhưng tính tình cũng rất bậm trợn, rõ ràng là con của một cán bộ ở ngoài Bắc được gửi vào. Nhìn  bề ngoài thì Sơn và Tửu là hai thái cực. Sơn thì cao lớn, ngông nghênh trong khi Tửu thì loắt choắt lại e dè, thứ e dè của kẻ lúc nào cũng muốn giữ thế thủ. Nhật Tiến kể lại:

“Một lần tò mò, tôi chợt hỏi Sơn:

- Thằng Tửu thế nào ? Bạn bè như nó chơi được không?

Sơn nhìn tôi như nghi ngờ tôi thăm dò điều gì. Nhưng rồi nó cũng đáp:

- Thằng ấy ranh như ma. Nó mới vô mà rành Sài Gòn còn hơn bọn em trong này. Nó giúp em  được nhiều thứ.

Tôi vui miệng hỏi tiếp:

- Vậy hả? Những thứ gì vậy cà?

- Bữa hổm, thằng gác chợ đeo băng đỏ đòi bắt giữ mớ cá của mẹ em, Tửu xông lại trừng mắt nói: “Này đằng ấy đừng có rớ tới má nuôi của tớ. Mẹ Chiến sĩ đấy?”. Thằng băng đỏ không vừa, cãi lại: “Cái  đồ chỉ buôn đi bán lại, mất phẩm chất cách mạng, Mẹ chiến sĩ ở cái chỗ nào?”

Câu chuyện vui vui, thấy tôi chăm chú nghe, Sơn hào hứng kể tiếp:

- Thế là Tửu giở giọng chửi tục ngay. Nó nói y chang như thế này: “Đ….cụ nhà anh! Cách mạng mới vừa thành công anh đã khoác ngav cái băng đỏ vào tay để lòe bà con, chớ anh biết chó gì về các mẹ nằm vùng che giấu cán bộ rồi chở cả súng đạn vô thành. Đừng có thối mồm giở giọng ta đây với mẹ chiến sĩ nhớ”. Thế là thằng băng đỏ im re rồi lảng mất?”

(hết trích)

 

Cờ Giải phóng Miền Nam trên đường phố Sài Gòn

 

Cái được mệnh danh là “thế giới trồng người” của nhà giáo Nhật Tiến thật nhỏ bé nếu so với cả một xã hội đang chuyển mình từ hai dòng ý thức hệ kể từ ngày 30/4/1975. Có thể nói, ngôi trường tuy nhỏ bé của ông đã chứng kiến nhiều thay đổi ngay từ những ngày đầu khi miền Nam thất thủ.

Phụ tá cho Ban Giám Hiệu nhà trường có đến hai người. Một người là “cựu nữ lao công” trạc ngoài 50 của trường từ trước 1975. Trong cương vị mới, bà đã ngồi tham dự tất cả các buổi họp của nhà trường nhưng người ta có cảm giác như bà ta bị miễn cưỡng. Nhật Tiến phân tích:

Bởi nếu là kẻ có tham vọng quyền lực mà bỗng nhiên trời cho rớt xuống một cái ghế Hiệu Phó như thế, hẳn bà ta phải huênh hoang, phách lối và mục hạ vô nhân như nhiều kẻ tiểu nhân đắc chí khác. Đằng này tuyệt đối không, tôi không thấy bà ta công khai “hỏỉ giấy” ai, nạt nộ ai hay dậm dọa gì ai…

Hiệu Phó thứ hai là một thanh niên trạc hai bốn, hai lăm, khá đẹp trai, tính tình nhã nhặn, biết nghe, biết ăn nói chừng mực. “Trình độ giác ngộ cách mạng của anh thì phải nói là siêu việtanh ta đã “thoát ly” gia đình, bỏ học tại Đại học Vạn Hạnh để ra bưng hoạt động.

Khi trở về thành, anh dành tất cả thì giờ riêng tư cho công cuộc gây dựng ngôi trường Xã hội Chủ nghĩa. Anh ăn ngủ ngay tại trường và việc gì cũng tham gia, cũng để tâm tới và góp phần trong những quyết định sau cùng. Anh sống giản dị, tứ thời đánh chiếc sơ-mi trng may bằng vải nội hóa, cái quần ka ki mầu xanh bộ đội và đôi dép râu tha nó từ trong rừng về.

Suốt mùa hè năm 1976, mọi sự chuẩn bị từ danh sách giáo viên, thời khóa biểu các lớp đến tài liệu giáo khoa đều đã xong xuôi qua tài điều khiển của anh Hiệu Phó. Giáo viên cũng đã tập trung ở trường Tabert cả tháng để học chính trị nên cũng trở lại trường chuẩn bị cho Lễ Khai Giảng.

Phần tiến hành thủ tục chào cờ được trao cho một thầy vốn là giảng viên Thể dục Thể thao của nhà trường trước đây. Học sinh xếp hàng ra sao, tiến lui theo nghi lễ thế nào, vào lối nào, ra lối nào, hô khẩu hiệu gì, v.v… đều được thầy cho tập dượt cẩn thận.

Ấy thế mà chính thầy lại bị vướng phải một lỗi chết người. Đó là cái lúc khi trong khi toàn trường và đông đủ quan khách tuyệt đối im lặng nghe hiệu lệnh của thầy giáo, thì thầy hô: “Chào cờ chào… Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng…”

Thì ra thầy quen miệng hát… bài quốc ca của chế độ cũ! Các thầy cô, quan khách và cả học sinh đều chết sững trong vài giây. Phải nói anh Hiệu Phó lả một tay nhanh trí, anh nhẩy lên giật lấy micro và nói: “Tất cả nghe tôi… Chào cchào… Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phất phới...”

Chuyện “hát lộn quốc ca” của Nhật Tiến không phải là trường hợp hi hữu duy nhất sau khi Sài Gòn đổi chủ. Năm 2012, trong bài viết “Saigon Stories” (https://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/08/saigon-stories.html), Hùng (con tôi) cũng đã kể lại với tác giả Sam Korsmoe một chuyện đã xảy ra trong ngày khai giảng năm 1976. Câu chuyện có đoạn như sau:

“… Hôm đó là ngày đầu tiên học sinh đi học trở lại nên có buổi lễ chào cờ. Cờ ‘giải phóng miền Nam’ với 2 màu đỏ-xanh và ngôi sao chính giữa được dùng thay cho lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa.

“Sau khi có hiệu lệnh “Nghiêm… Chào cờ… chào” đám học sinh cất tiếng hát “Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng…”. Thầy giáo điều khiển buổi lễ quá bất ngờ, vội vàng ra lệnh không hát quốc ca nữa. Hình như ông cũng ‘mắt trước mắt sau’ nhìn quanh xem có ông cán bộ nào chứng kiến cảnh trớ trêu này không. Chuyện như vậy rất dễ đưa lên tầm ‘quan điểm’.

“Bản quốc ca cũ vốn đã đi vào tiềm thức của những đầu óc non trẻ nên chúng chỉ hát như một cái máy chứ hoàn toàn không có ý ‘phản động’ hay chống đối gì… cách mạng! Hơn nữa, cách mạng đâu đã kịp dạy các em bài quốc ca mới nên làm sao chúng hát được? Cuối cùng, buổi chào cờ hôm đó chỉ kéo cờ lên chứ không có quốc ca đi kèm. Đó là ấn tượng sâu sắc nhất của Hùng, một chú học sinh mới 8 tuổi đời, trong ngày đầu tiếp xúc với cách mạng.”

 (hết trích)

 

Thanh niên “Băng Đỏ” sau ngày 30.4.1975

 

Người ta nói dạy học là nghề… “đưa đò” và thầy cô là những người cầm tay chèo để đưa học trò… qua sông! Một cán bộ đã từng giải thích với các thầy, các cô: Quá độ là qua đò, đang qua đò thì chưa tới bến ngay được, phải từ từ các đồng chí ạ!”.

Thời kỳ quá độgiai đoạn đang qua đò, do đó phải chấp nhận gian khổ, chớ vội vã đòi hưởng thụ. Nhật Tiến bình luận:

Nếu hiểu là như thế, thì chuyến đò chúng tôi đang đi đã chất lên đủ mọi hạng người, bất kể thuộc chế độ cũ hay chế độ mới, tàn dư phản động hay cách mạng tiên tiến. Cái sự qua đò này có phân biệt đối xử với ai đâu?

Thế cho nên tác giả cảm thấy “ngậm ngùi” khi thấy cán bộ đi săn lùng từ cái ấm đun nước, cái quạt để bàn hay cái bàn ủi ở chợ trời tại miền Nam. Hình ảnh những người lếch thếch vác cái khung xe đạp hay con búp bê trên đường ra Bắc cũng đã trở thành quen thuộc.

“Qua sông thì phải lụy đò, đang qua đò thì đời sống còn khó khăn, vất vả… mai mốt sang sông rồi hẳn sẽ khá hơn. Phải chăng đó chỉ là “bánh vẽ” nhưng vẫn cứ có nhiều người tin chỉ vì… nhá bo bo nhiều quá nên lú lẫn hết rồi!

Đất nước vừa hết chiến tranh, đòi có ngay nhà máy với nông trường sao được? Đánh tư sản, tịch thu nhà cửa, cơ xưởng của người ta rồi bắt đi kinh tế mới thì sẽ đẻ ra được nhà máy hay sao? Cái chủ trương ngăn sông cấm chợ thì đẻ ra được nông trường ư?

Nghịch lý như thế, dân miền Nam không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Ra Hà Nội vào những năm cuối thập niên 70 người ta đã không thể ngờ khi vào một tiệm cà phê thấy những chiếc muỗng để khuấy đều có móc xích gắn vào bàn. Thì ra đó là cung cách “quá độ” để đề phòng khi cái muỗng chạy theo khách về tận nhà!

Các thầy cô đều “phấn đấu để vào biên chế”, từ giã thời kỳ “tạm dung” kéo theo “nhu yếu phẩm” mang về cho gia đình. Được “biên chế” thì lương đang ba chục lên ngay năm, sáu chục… còn “nhu yếu phẩm” thì ôi thôi đủ thứ. Nhật Tiến ghi lại:

Tôi còn nhớ những lần đầu tiên được phát nhu yếu phẩm, tôi đã phải thủ sẵn từ nhà để mang đi một cái túi vải. Nó vùa đủ rộng để chứa đủ nào là hộp sữa, bọc đường, mì gói, bột ngọt, đậu xanh, miếng thịt, xâu cá, lại có cả cuộn giấy đi cầu. Đeo một cái bị như thế để khi giáo viên túa ra khỏi  trường lúc tan học, bà con hàng phố không nhìn thấy mình được lãnh những gì. Một ông thầy chữ nghĩa đầy đầu mà đi xách hộp sữa hay cuộn giấy đi cầu thì còn ra cái thể thống gì nữa.

Nhưng riết rồi cái thói che che, giấu giấu đặc biệt “tiểu tư sản” ấy đã không còn là một thói quen hay nhu cầu cần thiết nữa. Bây giờ thì chúng tôi thản nhiên mang ra khỏi trường từng bọc giấy, từng gói nylon, cái thì buộc túm ở sau xe, cái thì quàng vào tay lái trước, chẳng ai còn thấy phải quan tâm tới cái vẻ văn nhân mô phạm bề ngoài của một ông thầy trước con mắt dòm ngó của phụ huynh hay đám học trò của mình nữa.

(hết trích)

Có hôm loa nhà trường phát đi phát lại điệp khúc: “Yêu cầu đồng chí Bùi Nhật Tiến xuống ban tiếp liệu nhận nhu yếu phẩm.” Nhật Tiến khi đó đang giảng bài trong lớp bỗng cảm thấy khó chịu trong khi học trò cứ nhao nhao nhắc thầy đi lãnh nhu yếu phẩm. Tác giả viết:

“Phải nói rằng sau bao nhiêu ngày tháng triền miên trong thiếu thốn, nhu yếu phẩm là một niềm mơ ước của nhiều người. Đám giáo viên thuộc chế độ cũ chúng tôi, bất kể thâm niêm hay cấp lớp giảng dạy, trong niên học đầu tiên mọi người đều được lãnh đồng đều mỗi tháng 30 đồng, và chỉ thay đổi bậc lương khi mỗi người được chính thức vào “biên chế”.

Hầu như mỗi tháng 2 kỳ, mỗi giáo viên đư­ợc lãnh 1 hộp sữa bò, một túi đư­ờng trắng có khi là đư­ờng bổi, đư­ờng miếng (tôi chư­a bao giờ cân xem nó nặng bao nhiêu gam), một túi nhỏ đậu xanh hay đậu đen, 1 thếp giấy viết khổ đôi, 2 cuộn giấy đi cầu (loại giấy đã tái chế biến, dầy xộp, có mầu đỏ hồng chứ không phải mầu trắng).

Lâu lâu thì có thêm 1 chai bia hay một gói thuốc lá. Như­ng mấy thứ này thì phải chia nhau. Bia thì cứ hai ngư­ời một chai, thuốc lá hai ngư­ời một gói. Ai không uống bia, hút thuốc thì đối lấy đư­ờng, lấy đậu xanh, hay ngay cả cuộn giấy đi cầu. Nếu cả hai cùng muốn uống bia thì rút thăm, hoặc mở tại chỗ uống chung, thay phiên nhau mỗi ngư­ời một ngụm!

(hết trích)

 

Quà từ Sài Gòn của anh bộ đội về Bắc

 

Ở Chương Cuối, người đọc thở phào nhẹ nhõm khi nhà giáo Nhật Tiến đã giã từ “một thời nhếch nhác” vào cuối năm 1979 với sự “tài trợ” của những người bạn thân là một “mạnh thường quân” và người kia là “chủ tầu” đã “ưu ái” dành cho gia đình ông vài chỗ vượt biên với… “giá rẻ”!

Cuốn hồi ký “nhếch nhác” này được viết tại California, bắt đầu từ tháng 11 năm 2011 và hoàn tất vào tháng 2 năm 2012. Ngay từ Lới Nói Đầu của cuốn sách, tác giả đã trải lòng mình qua những dòng tâm sự dưới đây:

Ư­ớc vọng của người viết là mong mỏi rồi ra còn nhiều đồng nghiệp đã từng kinh qua những khoảng thời gian đó, sẽ ngồi viết lại hay góp phần phổ biến những trang sách cùng loại, để bức tranh khắc họa về ngành Giáo Dục Việt Nam sẽ mang một nội dung phong phú hơn, những sai lầm gây tổn hại lớn lao cho đất nước do những đầu óc thiển cận hẹp hòi trong quá khứ sẽ được nói lên rõ ràng hơn, và những thông điệp gủi gắm lại cho thế hệ đi sau sẽ mang được nhiều tâm huyết và được loan truyền rộng rãi hơn. 

***

--> Read more..

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2022

Ông Bà Bút Trà & Báo “Sàigòn Mới”

Trước 1975, làng báo Sài Gòn có nhiều chuyện lạ, phải nói là hi hữu mới đúng. Hồi đó có tới 3 ông làm văn, làm báo có cùng họ, cùng tên và ngay cả tên đệm: Nguyễn Đức Nhuận.

Ông Nhuận thứ nhất sinh năm 1900 và chết năm 1968 là chủ nhiệm tuần báo “Phụ nữ Tân văn”, tờ báo với phương châm “Phấn son tô điểm sơn hà, làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam”.

Ông thứ hai, cũng là Nguyễn Đức Nhuận (1901 – 1970), bút hiệu Phú Đức, với khoảng hơn 70 tiểu thuyết thiên về trinh thám võ hiệp, ăn khách nhất là các cuốn “Châu về hợp phố” (1926) “Lửa lòng” (1929). 

Thứ ba là nhà báo, nhà thơ Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận (1900 – 1982), sinh quán Quảng Ngãi; nguyên quán Quảng Nam. Ông chọn bút danh Bút Trà là để nhớ đến núi Thiên Bút và sông Trà Khúc ở tỉnh Quảng Ngãi.

 

Ông Bút Trà Nguyễn Đúc Nhuận

 

Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận có bài thơ khóc đồng nghiệp cùng tên họ với mình là nhà văn Phú Đức Nguyễn Đức Nhuận khi ông qua đời:

“Cùng họ, cùng tên lại một nghề,

Cùng trong tòa soạn thưở nào hê?

Bốn mươi năm trước còn ghi dấu!

Bẩy chục xuân nay đã vội về.

Vắng bạn văn đàn trông thấy thiếu,

Có mình thế giới tưởng như dư.

“Lửa lòng, “Hiệp phố” lần tay giở,

Sách đó, người đâu? luống não nề!”

Đến khi gặp “người yêu”, ông Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận cũng có một bài thơ kỷ niệm:

“Từ ngày gặp được em

Muôn sắc màu hoa gấm

Muôn đường tơ tươi thắm

Cùng hòa nhịp đôi tim.

 

“Từ ngày gặp được em:

Đời càng thấy yêu thêm

Những khi em vắng mặt

Là lúc đời tẻ ngắt!

 

“Từ ngày gặp được em:

Thấm thoát đã ba năm

Giấc điệp mơ màng đủ…

Một ngàn tám chục đêm!

 

“Từ ngày gặp được em:

Năm, tháng trong mong đợi

Nay xuân đã về tới …

Đâu những phút êm đềm?!”

“Người yêu” của nhà thơ là Tô Thị Thân, mà sau này người ta thường gọi là Bà Bút Trà khi hai người thành gia thất. Chồng trước của bà Thân là một thương gia người Hoa, thường được gọi là “Chú Xồi”, điều hành 20 tiệm cần đồ.

 

Vợ chồng Ông Bà Bút Trà (1950)

 

Cơ duyên run rủi và cũng do thời cuộc đẩy đưa, báo chí ở Sài Gòn lúc đó đang cạn đề tài giựt gân ăn khách nên họ moi óc tìm chuyện để khuấy động người đọc. Rất nhiều tờ báo đua nhau phê phán các tiệm cầm đồ với lý do "tiệm cầm đồ hút máu dân nghèo”. Và vợ của “Chú Xồi” vào cuộc.

Khi người ta chế diễu bà là “Thím Xồi”, bà đáp lại: “Ừ, tôi tên là thím Xồi thì đã sao kia chớ? Thím ấy có làm hại xã hội bằng những bài vở khiêu dâm chăng? Có nêu gương đồi phong bại tục chăng?”. Khi các báo xoay qua chê trách bà làm nghề cầm đồ, bà đáp thẳng thừng, “Hàng ngàn người khác cho vay cắt cổ, sao cứ bà họ Tô mà chửi?”

Số trời đã định nên “Thím Xồi” mới bước vào làng báo trong việc “thương thuyết” với báo Công Luận (tờ báo tấn công các tiệm cầm đồ mạnh nhất). Khi đó, ông Phú Đức Nguyễn Đức Nhuận làm chủ nhiệm và nhà thơ Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận thư ký tòa soạn.

Ông Bút Trà tiếp bà Tô Thị Thân để “nói chuyện phải trái” tại tòa soạn báo và sau này, chuyện “không tưởng” lại trờ thành “sự thật” khi “Thím Xồi” trở thành “Bà Bút Trà” sau khi ly dị với “Chú Xồi”.

 

Nhật báo “Saigon Mới” của ông bà Bút Trà

 

Trong “Hồi ký văn nghệ”, nhà văn Bình Nguyên Lộc viết về cuộc tình giữa hai “Ông Bà Bút Trà” có sự “đóng góp” của ông, khi đó mới 17 tuổi!

Một hôm, bà Tô Thị Thân kêu ông Tô Văn Giỏi là kế toán của bà: “Em Giỏi nè, em có biết ông nào viết nhựt trình thật giỏi, mà ăn lương rẻ hay không?... Chị muốn lập ra một tờ nhựt trình để chửi lại cái tụi đã chửi chị”.

Ông Giỏi lại không hề quen một ký giả nào hết nên tìm đến người em bà con là Tô Văn Tuấn (tên thật của nhà văn Bình Nguyên Lộc), đang là học sinh trường Petrus Ký vì ông biết thằng em mình vì ham văn chương, chắc quen với một số nhà văn, nhà thơ nên nhờ Tuấn giới thiệu giùm.

Cậu học sinh 17 tuổi trình bày yêu cầu của Bà Thân và ông Bút Trà đồng ý gặp. Hóa ra anh chàng Tuấn lại là cầu nối giới thiệu ông Bút Trà cho ông Giỏi và sau cùng là cuộc hội ngộ của Ông và Bà Bút Trà để tạo ra một “câu chuyện có một không hai” trong làng báo Sài Gòn xưa!

 

Nhà văn Bình Nguyên Lộc

 

Bình Nguyên Lộc viết: “Có thể nói mà không sợ sai là chính tôi đã tạo ra bà Bút Trà. Và ngược lại chính bà Bút Trà đã tạo ra Bình Nguyên Lộc. Duyên văn là như thế. Bà họ Tô ấy quả đã có công thật lớn với kẻ họ Tô là tôi đây”.

Về nhan sắc, ông mô tả: “Bà là người đàn bà Việt Nam thuộc vào hạng phụ-nữ Việt Nam cao lớn nhứt nước. Bà có đẹp hay không vào thuở đó? Tôi bảo đảm là bà ấy rất đẹp. Nhưng tình-trạng giàu có của bà với lại sắc đẹp của bà thật ra chẳng có gì đáng kể đối với tài tháo-vác của bà...”

Báo “Sài Thành” (1932) đổi tên thành “Sài Gòn” (1933) rồi lại thành “Sàigòn Mới” kéo dài hơn nửa thế kỷ. Bà Bút Trà Tô Thị Thân một tay quán xuyến cơ đồ, dù ít học mà cũng chẳng có kinh nghiệm làm báo. Ông Bút Trà thực ra không làm gì khác ngoài nhiệm vụ “làm chồng” và làm thơ Đường!

“Sàigòn Mới” trong suốt 30 năm không ngừng phát triển, ấn bản có lúc lên đến 100.000 với sự hợp tác của nhiều nhà văn, nhà báo có tiếng như Bà Tùng Long, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Vỹ, Dương Hà, Trọng Nguyên... Ngoài ra còn có các thân hữu của ông Bút Trà như các nhà thơ Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân...

 

Nhật báo “Saigon Mới” của ông bà Bút Trà

 

Ông Bà Bút Trà còn có 2 tờ báo khác là “Phụ nữ Diễn Đàn”“Phụ nữ Ngày Mai” giao cho 2 người con là Nguyễn Đức Chiến (Hai Chiến) và Nguyễn Đức Khiết (Sáu Khiết) trông coi. Hai tờ báo này rất được độc giả là nữ giới yêu thích.

Cả 3 tờ báo còn có những sáng kiến tạo ra những tiết mục đặc biệt rất hấp dẫn người đọc. Mục “Gỡ rối tơ lòng” do Bà Tùng Long phụ trách, “Giải đáp pháp luật” do luật sư của báo đảm nhận và “Giải đáp y tế” giúp người đọc hiểu biết về sức khỏe của mình.

Riêng tiết mục “Vận số trong tuần” do vị sư sáng lập Tam Tống Miếu và cũng là người anh thứ ba của Bà Bút Trà tiên đoán vận số theo tuổi tác. “Sàigòn Mới” còn độc quyền phát hành lịch Tam Tống Miếu trên toàn quốc.   

Ông Bút Trà cũng tham gia hoạt động xã hội như là sáng lập viên Hội Ái Hữu Trung Việt còn Bà Bút Trà cũng là Chủ tịch Hội Phụ Nữ Việt Nam. Phong trào Phụ Nữ Liên Đới của bà Ngô Đình Nhu được thành lập để ủng hộ chính quyền sau vụ “đảo chính hụt” vào cuối năm 1960, Hội Phụ Nữ Việt Nam phải sáp nhập vào Phụ Nữ Liên Đới.

Sự thành công của Ông Bà Bút Trà không ít thì nhiều cũng gây ra sự ghanh tị trong cạnh tranh nghề nghiệp với các báo khác. Họ tìm đủ cách để triệt hạ một khi thấy báo có sơ suất. Chẳng hạn như tin “giựt gân” về chuyện “người lấy khỉ” ở Cà Mau đăng trên “Sàigòn Mới”. Các báo khác thi nhau gọi đây là một tin thuộc loại “lá cải”, câu khách.

 

Tòa soạn báo “Saigon Mới”, đường Colonel Grimaud (nay là Phạm Ngũ Lão)

 

Sau cuộc đảo chính năm 1963 tờ báo phải đình bản một thời gian vì bị kết tội “thân với chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm”. Đến năm 1972 “Sàigòn Mới” phải đình bản hẳn khi có luật báo chí quy định các chủ báo phải ký quỹ 20 triệu đồng.

Sau năm 1975, rạp chiếu bóng Kim Châu (mang tên của người con gái lớn) bị nhà nước quản lý vì gia đình có liên quan đến 3 diện: vừa là nhà báo lại vừa là tư sản, gia đình lại có con là sĩ quan cao cấp thuộc chế độ cũ. Bà Bút Trà mất năm 1979, thọ 76 tuổi, hai năm sau, ông qua đời, hưởng thọ 76 tuổi.

 

Ngày 2.11.1963, báo “Saigon Mới” bị đập phá sau khi Tổng thống Diệm bị lật đổ

 

Nhà văn Hoàng Hài Thủy với 50 năm trong nghề báo, nhắc đến cả hai ông bà với những dòng tưởng niệm thật cảm động:

“... Tôi đã làm việc với khoảng trên dưới 10 chủ báo, chỉ có ông bà Bút Trà được tôi coi như chủ nhân của tôi. Trong suốt 9 năm trời tôi không một lần thấy bà xẵng giọng với nhân viên, bà không rầy la nhân viên trước mặt đồng nghiệp của anh ta, bà cũng chẳng bao giờ than phiền một nhân viên nào làm việc bê bối với người trong tòa soạn, cần nói gì bà mời riêng nói chuyện...”

Đó là điều chứng tỏ sự thành công của báo “Sàigòn Mới” nói chung và Ông Bà Bút Trà nói riêng. Nói rộng ra, tờ báo đã có tác dụng hơn cả Bộ Giáo Dục trong việc phổ biến văn hóa đọc trong mọi tầng lớp dân chúng miền Nam.

Thành quả này đã biểu hiện rõ ràng nếu đem so sánh trình độ dân trí và ý thức dân chủ của người dân của hai miền Nam-Bắc.

 

Di cốt bà Bút Trà

 *** 

--> Read more..

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2022

Đời phi công – Toàn Phong

Năm 1959, “Đời phi công” của Toàn Phong – Nguyễn Xuân Vinh ra mắt người đọc và tạo một tiếng vang đến giới trẻ thời đó. Không những thế, tác phẩm đã dành được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961, minh chứng hùng hồn cho một tác giả mới 29 tuổi nhưng đã chiếm một vị trí không nhỏ trong nền văn học của thời Đệ nhất Cộng hòa.

 

Tác phẩm “Đời phi công” - Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh

 

Tác phẩm tương đối mỏng với hơn 50 trang, dàn trải qua 9 chương, xoay quanh việc đi tìm hướng đi mới của một thanh niên trước tiếng gọi của đất nước. “Đời phi công” thực ra là những bức thư gửi cho người yêu, một cô sinh viên mang tên Phượng, để kể hết những chuyện xảy ra trong suốt thời gian “học bay” tại nước ngoài của tác giả.

Ngay ở Chương đầu tiên, Toàn Phong đã khẳng định với Phượng: “Nghề nghiệp anh đã quyết định lựa chọn rồi đây sẽ là nguồn sống của cả cuộc đời...”:

“Viết thư này anh đã ở xa em muôn vạn trùng dương. Anh mỉm cười khi đặt bút vì nghĩ rằng em vẫn thường chê cái tính thích giang hồ vặt của anh. Lần này thì anh đi hẳn, đi thật xa cho đến khi nào công thành anh mới trở về. Anh cũng chưa viết thư về cho Bác biết và chắc giờ đây Bác nghĩ rằng anh đang sống vất vưởng ở một xó xỉnh nào giữa thành phố Sàigòn.

“Khi nào có dịp xuống Hải Phòng em lại thăm Bác và lựa lời nói giúp hộ anh. Anh biết đã làm cho Bác buồn phiền nhiều ngay từ khi đang học Dược Khoa ở Hà Nội anh bỏ để vào trong Nam. Và từ dạo ấy đến nay kể đã hai năm rồi em cũng như Bác không gặp lại anh”

(hết trích)

 

Một chuyện tình

 

Toàn Phong, chàng trai tuổi đời vừa chớm 20, đã quyết: “...làm sao anh có thể kéo dài chuỗi ngày bình thản đến gần như vô vị trong bốn bức tường dưới sự nâng chìu của người thân tình trong khi anh đang thèm khát những bến trời xa lạ, muốn đi nhiều, học nhiều để sau này do chính bàn tay mình xây dựng lấy cuộc đời...”

Cuộc phiêu lưu bắt đầu khi chàng thanh niên rời Sài Gòn vào một sáng tinh sương, trời còn hơi mờ mờ tối. Chiếc xe ca chở anh tới Tân Sơn Nhất chạy quanh co qua những phố vắng ngập nước mưa đêm hôm trước nhưng tâm hồn thấy vô cùng sảng khoái. 

“Anh thấy nhớ Sàigòn quá, nhớ hơn cả Hà Nội. Có lẽ tại Sàigòn đã cho anh nếm hết tất cả mùi vị cay đắng của cuộc đời. Rồi anh nghĩ đến em, đến Hà Nội. Lúc này chắc em đã bắt đầu sửa soạn đi học...”

Chiếc máy bay từ Sàigòn lần lưọt hạ cánh ở Calcutta, Karachi, Beirut, La Mã và cuối cùng là Paris. Khi bước chân xuống Karachi để máy bay lấy xăng, người phi công lại gần bắt chuyện với anh:

“Tôi xem phiếu lý lịch hành khách thấy đề tên ông sang Pháp học lái máy bay?

 Anh gật đầu, người ấy nói tiếp:

- Rồi ông sẽ thấy bay là một cái nghiệp. Mắc vào rồi nó sẽ vướng lấy mãi”.

 

Đại tá Nguyễn Xuân Vinh (1930-2022)

 

Anh đến “Kinh thành Ánh sáng” Paris vào một buổi chiều mùa thu lá vàng rơi đầy đường sau khi đã lênh đênh trên mây trời hơn 30 tiếng đồng hồ. Được sắp xếp ở trong khu nhà sĩ quan gần trường bay Bourget, buổi sáng ở đây vừa có một chiếc phi cơ Junker 52 bị rơi, mười chín người bị cháy ra tro!

Chỉ ở Paris hơn một tuần để đợi chuyến máy bay đi Marrakech tại xứ Bắc Phi một năm để học lái máy bay trong giai đoạn đầu. Cuộc hành trình du học sau đó sẽ quay trở lại Pháp học thêm chừng hai năm nữa. Chàng thanh niên viết thư cho người yêu trong một quán rượu giữa khu Latin ở Paris:

“Nhận thư em hôm qua, lúc đọc anh hơi mỉm cười vì câu hỏi ngây thơ của em: "Anh có thấy nhớ nhà không?" Thành thực mà trả lời thì trong lúc này anh không thấy nhớ vì lòng đang rộn ràng với những cảnh lạ đường xa. Anh chỉ mơ hồ thấy rằng hiện nay quê hương đang ở xa lắm, gần trọn nửa vòng trái cầu, có nhớ, có thương chăng nữa thì cũng nhớ xa sầu vời vợi, thương mênh mông như đại dương rộng lớn còn có nhớ thương riêng một chút nào thì chắc cũng chỉ gói trọn vào một mình em gái anh mà thôi.

...

“Con người lưu lạc phương trời, dù cho mái tóc đã bạc màu quan tái, đôi vai đã nặng chĩu phong sương có lẽ tới đây cũng phải ngần ngại dùng dằng vì những đôi mắt của ngưòi đẹp Ba lê. Không khí ở đây không biết có một vẻ gì quyến rũ lạ. Ba lê nhộn nhịp, tấp nập ban ngày nhưng ban đêm Ba lê cũng không kém phần tưng bừng huy hoàng.

(hết trích)

Trong thời gian học bay ở Marrakech, xứ Ma Rốc, đã có đến 7 tháng không nhận được thơ Phượng vì họ... “giận nhau”! Chàng trai viết:

“Anh ước ao lúc này được ở quê nhà để lại thăm em, để biết duyên cớ sự giận dỗi thầm lặng lâu nay. Anh vẫn biết em mỗi tuổi một lớn và lòng người thiếu nữ dậy thì thường hay thay đổi không đâu. Nếu ở cái thuở ngày xưa xa xôi anh có thấy em phụng phịu nét mặt, không thèm chơi với anh nữa thì anh cũng có thể hiểu ngay được là vì anh đã quên không khen em là cô văn sĩ tí hon như thường lệ khi anh chấm cho em bài luận Việt văn hay không rủ em đi câu cùng với anh chiều thứ bảy vừa qua ở con sông đầu làng.

...

“Em Phượng, nếu giờ đây em có đang giận anh thì anh cũng đành chịu vì anh không còn quyền lực gì để bắt em phải nghe theo lời anh. Nhưng chắc em cũng còn để cho anh viết cho em để kể cho em nghe đôi câu chuyện vui buồn của những phi công như các anh mà nơi trú ngụ ở khắp bốn phương trời, tương lai cũng mơ hồ như sương đêm và lênh đênh trên đám mây trắng là hình ảnh cuộc đời...”

(hết trích)

 

Cánh chim bằng

 

Sau tám tháng trời vất vả, chàng thanh niên bắt đầu sang giai đoạn bay đêm và tự tin rằng mình sẽ thành công. Chàng phi công đã sung sướng hát “bài ca vũ trụ”“lòng nhẹ như mây hồng trôi”! Chàng còn viết: “Em có cùng ở đây lúc này chắc cũng lây niềm hân hoan, nhoẻn miệng cười mà tan hết giận hờn”.

Chuyến bay đêm đáng nhớ nhất là lần bay đi Safi, một hải cảng bên bờ Đại Tây Dương trong một đêm trăng rằm. Phải làm thủ tục ký vào sổ bay, ghi số máy bay trên một tấm bảng con buộc vào đùi và vác chiếc dù nặng gần chín kí lô trên vai phải.

Chưa hết, dưới tay trái cồng kềnh mũ bay, bản đồ, đèn bấm và cả một chiếc bánh mì kẹp chả! Dưới ánh trăng mờ mờ, ánh đèn phi trường huyền ảo, chờ đèn xanh từ chiếc xe vô tuyến cuối đường bay để cất cánh... Ánh đèn xanh chớp chớp và phi cơ từ từ chuyển động.

Chiếc phi cơ lên tới tám ngàn bộ và bình phi. Ánh đèn phi trưòng chỉ còn nhỏ bé dưới chân mây như trên một phố đêm vắng vẻ. Những kim dạ quang chập chờn trong bóng đêm... trong những chuyến bay đêm thì người phi công chỉ còn biết tin vào chiếc kim nhỏ bé.

“Anh đã cất cánh lúc trăng rằm vừa mọc làm mờ ánh sao hôm. Phi cơ sẽ trở về phi trường khi trăng còn đương chếch trên đỉnh đầu. Tuy em không ở gần anh nhưng anh tin rằng em đã cùng anh bay trong ánh trăng rằm đêm nay dưới trời Bắc Phi. Còn thấy giận anh nữa không, em Phượng?”


Phi công VNCH sau chuyến Bắc Phạt năm 1965


Trở lại đất Pháp, chàng phi công đã tới Marseille và nhận được tin Phượng đã trúng tuyển Tú Tài phần I. Lại còn vui hơn thế nữa khi thấy nàng nói cái "anh chàng" hay đứng rụt rè trước cửa nhà ngày nào đã giúp nàng trong việc luyện thi!

“Anh chàng” đó là Hiền, cũng là một người bạn sinh viên trường y, rất “đứng đắn” so với “tính ham chơi” của chàng phi công. Còn câu hỏi anh có bằng lòng để Hiền dạy kèm khi anh khi vắng nhà thì chàng chỉ cho biết... “thấy khó nói!”. Anh còn viết trong thư:

“Người bạn hiền lành của anh năm xưa nay đã gần trở thành một bác sỹ. Còn con người lông bông như anh thì nay đang lênh đênh trôi dạt chưa biết sẽ tới bến bờ nào... Chỉ biết rằng anh không ngần ngại lao mình vào cuộc đời phi công và giờ đây anh vui với số phận. Chí làm trai anh đã được toại nguyện.”

 

Bạn tôi, Nguyễn Mạnh Dũng, đã ra đi trên chiếc A-37 ngay trong ngày 30.4.75

 

Trở lại Pháp, “cuộc đời lông bông” của chàng lãng tử lại bắt đều khép vào khuôn khổ để chính thức trở thành “sĩ quan phi công”. Bay bổng như ở Bắc Phi như thế cũng chưa đủ, anh còn phải học thêm phần lý thuyết, học làm sao để sử dụng động cơ cho quay tròn, học nhắm những vì sao trong vũ trụ... Và cả chuyện “học đi, học đứng”, học phép lịch sự để trở thành một phi công.

“Cuộc đời phồn hoa là để dành cho những người biết nói, biết cười, chân biết đi theo điệu nhạc, người biết nghiêng một cách khả ái trước nụ cười cao kỳ của một giai nhân. Trong cái con người mài trong phong sương của các anh còn thiếu một con người hào hoa của thế hệ biết đọc những vần thơ bóng bẩy, biết phê bình một vở kịch thời đại, biết nói những câu hoa mỹ. Âm thanh của không trung khô khan lắm em ạ.

...

“Ánh tinh cầu của những chuyến bay đêm không trong được bằng ly rượu pha lê. Và chàng trai nhớ mãi ánh mắt giai nhân, không hiểu là mến thương hay ái ngại. A ha! Ai có dám tự hào vỗ ngực nói tôi là gió sông hồ kết hợp vì trong những đêm liên hoan này có còn ai nghĩ đến những người bay bốn hướng?

(hết trích)

Suốt 3 năm trời học hỏi trên những vùng đất lạ và bây giờ... “Đôi cánh anh đeo trên ngực, kèm theo một ngôi sao nho nhỏ có lẽ là tất cả mơ ước của những thanh niên mới vào nghề. Ba năm trời gian lao anh mới đạt được ý định và nay chỉ còn chờ ngày hồi hương!”

Nhưng đã quá muộn vì gần một triệu dân đã di cư vào Nam trong khi anh chỉ còn vài tháng nữa sẽ về đến Sài Gòn...  “Giá anh tốt nghiệp sớm hơn chừng hai tháng, có lẽ anh đã có dịp chở những đồng bào cuối cùng rời Hải Phòng. Nhưng tiếc thay anh về hơi muộn và giờ chỉ còn biết vui mừng khi được tin thân quyến đã được yên hàn tới Sàigòn”.

 

Bạn tôi, Vĩnh Anh, trên chiếc Skyraider nay cũng đã ra đi!

 

Câu chuyện “Đời phi công” của Toàn Phong được kết thúc bằng một bức thư cuối cùng của một phi công trên đất khách:

“Anh ngồi viết cho em một buổi chiều nắng vàng chưa tắt. Ba năm về trước anh đã hứa những gì với em, chắc em còn nhớ. Chỉ độ hai tuần nữa anh sẽ gặp lại em. Nét cười có phác hồn tang hải, mái tóc có phai màu sương gió nhưng anh vẫn còn là anh của em như độ nào. Anh rời em một ngày đông lạnh lẽo ở Hà Thành và sẽ gặp lại em vào cuối một mùa xuân ở đô thị Sàigòn. Non nước kinh kỳ đà rời chỗ, còn em của anh có khác xưa không?”

 

Bạn tôi, Nguyễn Kim Khoa, giờ đang ở Hoa Kỳ

 

***

 * Đọc "Đời phi công" tại: 

https://vietmessenger.com/books/?title=ddoi%20phi%20cong

  

***

--> Read more..

Popular posts