Năm
1967, nền Đệ nhị Cộng hòa tại miền Nam
đã xây dựng tượng đài hai quân nhân Thủy quân Lục chiến (TQLC) trước Hạ viện,
hay còn gọi là tòa nhà Quốc hội, nay là Nhà hát Thành phố. Tượng hai người lính
TQLC có độ cao 9 mét, trong tư thế xung phong, mũi súng hướng về trụ sở Hạ viện.
Ngay
sau khi bức tượng được đặt ở một vị trí quan trọng nhất thủ đô đã có nhiều ý kiến
trái ngược nhau. Một số người cho rằng quân đội “thao túng” các dân biểu Hạ viện
bằng hình ảnh hai người lính cầm súng đại liên đe dọa sinh hoạt dân chủ của miền
Nam.
Quân
đội lại giải thích những người lính bảo vệ Quốc hội khi họ hướng mũi súng vào
tòa nhà thay vì hướng ngược lại… Lại có một giải thích khác, mũi súng thực ra
thì hướng về Khách sạn Continental nằm phía phải Hạ viện, nơi được coi là “hang
ổ” của các lực lượng phản chiến, trong số đó có cả những dân biểu.
“Bảo vệ” hay “đe dọa” Hạ viện?
Việc
xây dựng những bức tượng kỷ niệm khắp các điểm nổi bật ở thủ đô Sài Gòn đã được
“Nội các Chiến tranh” của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ thực hiện trên một quy mô lớn.
An Dương Vương, thánh tổ Pháo binh, được đặt tại công trường Diên Hồng, trước
Thượng viện, đường Bến Chương Dương. Phù Đổng Thiên Vương, thánh tổ Thiết giáp,
nằm tại bùng binh Ngã 6 Sài Gòn. Trần nguyên Hãn, thánh tổ Truyền tin, tại bùng
binh Quách Thị Trang, trước cửa chợ Bến Thành. Phan đình Phùng, thánh tổ Quân cụ,
tọa lạc trước bưu điện Chợ Lớn. Trần Hưng Đạo, thánh tổ Hải Quân, tại công trường
Mê-Linh…
Bên
cạnh những danh nhân lịch sử, các binh chủng còn có tượng đài kỷ niệm như tượng
Thiên sứ Micae, thánh tổ binh chủng Nhảy Dù gần bệnh viện Sùng Chính, quận 5. Biệt
Động Quân có tượng 3 người lính tại ngã sáu Lý Thái Tổ. “Tổ quốc Không gian” của
Không quân trước mặt Tòa Đô Chánh và, đặc biệt hơn cả, là bức tượng TQLC trước
Hạ viện.
Việc
xây dựng tượng TQLC cũng gặp nhiều trục trặc. Ban đầu, Thiếu tá Huỳnh Huyền Đỏ
(thuộc bộ Tổng Tham Mưu), đưa ra phác thảo mẫu với hính tượng ba người lính. Thiếu
tá Đỏ là điêu khắc gia xuất thân trường Mỹ thuật Gia Định. Trong khi đang thực
hiện công trình này thì vì một lý do nào đó Thiếu tá Đỏ không thể tiếp tục được
nữa nên giao công việc đang còn dang dở cho Bộ tư lệnh TQLC.
Trước
áp lực phải hoàn thành đúng thời hạn để kỷ niệm ngày chấp chánh, TQLC giao cho
Thiếu úy Đinh Văn Thuộc tiếp tục công việc với sự góp ý và hướng dẫn của hoạ sĩ
Lê Chánh (Bộ tư lệnh TQLC) và Lương Trường Thọ (Trung tâm Huấn luyện TQLC).
Thiếu
úy Thuộc, đại đội trưởng đại đội Công vụ TQLC, tuy không là hoạ sĩ hay điêu khắc
gia mà chỉ là “tay ngang” nhưng ông cùng anh em đại đội Công vụ đã nhận lãnh
trách nhiệm. Họ làm việc liên tục 24/24 và cuối cùng, đã hoàn thành nhiệm vụ.
Khi
hai người lính TQLC xuất hiện trước công chúng, một số người “trong nghề” phê
bình những khiếm khuyết của bức tượng như nòng súng đại liên quá ngắn nếu so với
kích thước thật, trong khi đó “cặp mông” của hai chiến sĩ lại quá to… Nếu hiểu rõ
bức tượng đã được hoàn thành bởi những người “lính thợ tay ngang” nhiều người tỏ
ra thông cảm với những nỗ lực của TQLC.
Những
hình ảnh dưới đây được trích từ video clip do các phóng viên người Pháp thực hiện
ngày 30/4/1975. Diễn biến cuộc “bức tử” hai người lính TQLC ngay sau khi Đại tướng
Dương Văn Minh tuyên bố “đầu hàng” đã được ghi hình, Chúng tôi trích lại như
sau:
Một
thanh niên “băng đỏ” leo lên đầu bức tượng người lính TQLC trước Quốc hội. Với
một chiếc búa, anh ta đập vành nón sắt của người lính để bắt đầu cuộc “bức tử”
pho tượng.
Thanh
niên “băng đỏ”, hay còn gọi là “cách mạng 30/4”, đứng trên vai bức tượng người
lính. Anh tiếp tục dùng búa giáng lên đầu bức tượng…
Cuối
cùng, anh ta giơ hai tay lên trời làm dấu hiệu… “chiến thắng”.
Bức
tượng sau đó được buộc dây do một số người đứng ở dưới đất kéo xuống…
(Ảnh không nằm trong
video clip)
Hai
người lính TQLC từ từ ngả về phía tòa nhà Quốc hội.
Khi
bức tượng chạm đất, một đám bụi mù bốc lên giữa sự chứng kiến của một số phóng
viên nước ngoài.
Một
thanh niên “băng đỏ” leo lên đống đổ nát của bức tượng, trên tay cầm lá cờ “Giải
phóng Miền Nam”… chứ không phải là cờ của miền Bắc… Cờ “giải phóng” với ba màu
đỏ, xanh và ngôi sao vàng còn xuất hiện khắp đường phố Sài Gòn, trên chiến xa,
trên xe chở bộ đội miền Bắc…
Ngoài
việc lá cờ vàng với 3 sọc đỏ bị hạ xuống tại dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 để
thay bằng cờ của Mặt trận Giải phóng miền Nam, người ta không thấy xuất hiện lá
cờ đỏ sao vàng của miền Bắc dù bộ đội chính quy của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã tràn ngập Sài Gòn.
Khi
miền Nam thất thủ, lịch sử ghi nhận có 5 trường hợp tuẫn tiết. (1) Chuẩn Tướng
Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, tự sát lúc 11g ngày 30/4; (2) Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4, tự kết liễu đời mình lúc 11g30; (3) Chuẩn
tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4, tuẫn tiết lúc 8g45 tối ngày 30/04;
(4) Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, tự sát vào đêm 30/4;
(5) Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, đã ra đi tại nhà vào cùng
ngày.
Biến
cố ngày 30/4/1975 đánh dấu sự chấm dứt của miền Nam và điều đáng ghi nhớ, đó
cũng là ngày mà bức tượng TQLC bị “bức tử”, bị giựt sập trước tòa nhà Hạ viện.
VNCH đã cáo chung nhưng hai anh lính TQLC không ra đi trong cô đơn vì vài giờ trước
khi bị “bức tử” đã có một anh hùng khác cũng thác theo Sài Gòn ngay dưới chân
các anh.
Người
tự sát dưới chân tượng đài sáng ngày 30/4/1975 là Trung tá Cảnh sát Nguyễn Văn
Long, Chánh Sở Tư Pháp Vùng I Chiến thuật, người mới từ Đà Nẵng di tản về Sài Gòn.
Trung tá Nguyễn Văn Long yên nghỉ dưới chân bức tượng hai
người lính TQLC
Nhà
văn Duyên Anh trong “Ngày dài nhất”
viết về Trung tá Nguyễn Văn Long như sau:
“…Chúng tôi lách đám
đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục chiến, xác một người cảnh sát nằm
đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá,
ông ta mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá cảnh sát Long
đã tự sát ở đây, Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên
truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng
mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ
hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những bài ca cách mạng, những lời hoan
hô bộ đội giải phóng.
Trung tá Long đã chọn
đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài Gòn là Tổng trấn Sài Gòn đã đào ngũ.
Tướng giữ thành Sài Gòn là Đô trưởng Sài Gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài
gòn là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những
trang lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu
tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhận sống hùng mọi hoàn cảnh,
người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết tuyệt vời của Trung tá Cảnh
sát tên Long…”
…
“Tôi muốn biểu dương
Trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu của Sài Gòn. Ông ta đang nằm
kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam anh dũng. Máu Trung tá
Long đã thấm xuống lòng đất mẹ. Cái chết của Trung tá Long nếu chưa thức tỉnh
được sự u mê của thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít
ra, nó cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng giặc.
Tôi không mấy hy vọng cái chết của Trung tá Long lay động nổi cái bóng tối vô
liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ. Chúng ta hãnh diện làm người
Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn Trung tá Long không đào ngũ, không đầu hàng
giặc và biết chết cho danh dự miền Nam, danh dự của tổ quốc…”
Trung tá Nguyễn Văn Long sinh tại Phú Hội, Huế ngày 1/6/1919.
Ông ra đi năm 1975, lúc đó 56 tuổi, là người cao niên nhất
trong số các vị tuẫn tiết.
(Ảnh của Jacques Pavlovsky)
Phải
rất nhiều năm sau biến cố 30/4/1975 người ta mới lần tìm ra tung tích của Trung
tá Nguyễn Văn Long. Năm 2003, nhà văn Giao Chỉ đã liên lạc được với một người
con gái thứ 3 của ông tại San Jose:
“Bà Nguyễn thị Tâm
năm nay ngoài 60, đã có cháu nội cháu ngoại nhưng mãi mãi vẫn là cô nữ sinh Đồng
Khánh. Bằng một giọng nói xứ Huế pha tiếng Saigon, bà Tâm nói chuyện tuôn trào
trôi chảy và đầy hãnh diện khi nhắc đến người cha anh hùng…”
Gia
đình ông Long rất đông con, có tất cả 13 anh chị em, 6 trai 7 gái. Con trưởng
là Thiếu úy biệt động quân Nguyễn Công Phụng (1942-1968) hy sinh tại Quảng Tín.
Trong số 6 người con trai (Phụng, Hoàng, Minh, Tiến, Quang, Hội) có đến 5 người
đi lính: 2 người vào Không quân, 1 Thiết giáp, 1 Cảnh sát và 1 Biệt động quân.
Trong số 7 người con gái (Đào, Tâm, Thiện, Hòa, Hảo, Hiền, Huê) chỉ có 3 chị em
ở Hoa Kỳ, số còn lại đều sống tại Việt Nam. Bà Tâm kể về những ngày cuối cùng:
“Lúc đó vào cuối
tháng 3/75 ở Đà Nẵng ba vẫn làm việc trong trại, không về nhà. Hai cậu em không
quân, một ở Đà Nẵng, một ở Biên Hòa. Một cậu đưa cả nhà vào sân bay Đà Nẵng chờ
di tản. Nhưng rồi cũng không đi được. Vào ngày cuối cha về nhà không thấy gia
đình. Ông nghĩ rằng vợ con có thể đã đi thoát trong phi trường. Ông xuống bãi
và ra đi bằng tàu về Sài Gòn…”
Vào
đến Sài Gòn đã có cô con gái lớn đón ông về ở tạm, lúc đó mới biết vợ con còn kẹt
ở Đà Nẵng, ông Long vào trình diện Tổng nha Cảnh sát. Trưa 30/4/75 khi radio
phát thanh lời Tổng thống kêu gọi đầu hàng, Trung tá Long, chỉnh tề trong bộ cảnh
phục, đến bức tượng TQLC trước Quốc hội… Một phát súng được bắn vào thái dương, ông ngã xuống
và buông khẩu súng nhỏ theo lệnh Tổng thống! Khẩu súng tùy thân Trung tá Long vẫn
mang theo từ Huế, Đà Nẵng vào đến Sài Gòn.
Người Sài Gòn và cả người nước ngoài ngỡ ngàng
trước cái chết của Trung tá Nguyễn Văn Long
ngày 30/4/1975
***
(Trích
Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời
xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà
Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và
Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng
viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng
Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện
tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề
báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những
chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp
một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống
lỗ)!