(Tiếp
theo)
Suốt
23 Chương trong “The Sympathizer” (gần
400 trang) được viết theo dạng của một “bản tự khai” hay còn gọi là “tự thú” (confession)
của viên Đại úy “nằm vùng”, khai cho “Cấp Chỉ Huy” (Commandant) sau khi anh bị
bắt trong lần trở về Việt Nam khi không có lệnh của “tổ chức”.
Đây
là hình thức thường thấy trong các trại cải tạo sau năm 1975, qua đó người ta tự
khai với “tổ chức” những điều đã làm và dĩ nhiên phải có phần “soi rọi bản thân”
để rút ra những sai lầm trong quá khứ. Một bản tự khai như vậy sẽ phải dùng đại
danh từ “Tôi” (hay “bản thân tôi”).
Cũng
vì thế trong suốt cuốn truyện, nhân vật chính chỉ xưng… “Tôi”. Văn phong của “The Sympathizer” là lối tự truyện, hoàn
toàn độc thoại và không có “gạch đầu dòng” cho những đối thoại. Đây là một cách
viết rất khó mà đa số các nhà văn đều tránh. Nhưng phải nói, Nguyễn Thanh Việt
khá thành công trong lối đặc tả vừa nghiêm trang nhưng cũng có không ít chất hài
hước.
Tác
giả cho biết, anh muốn viết khác với những gì mà người đọc mong chờ từ một nhà
văn thuộc nhóm thiểu số (da vàng hoặc da đen) trong “làng văn” tại Hoa Kỳ mà đa
số (người viết cũng như người đọc) là những người da trắng. Về nội dung, anh muốn
viết về thân phận của con người trong cuộc chiến vừa qua. Cái nhìn đó xuất phát
từ cả 3 phía: Hà Nội, Sài Gòn và Washington.
Nguyễn
Thanh Việt thừa nhận mình đã nhiều lần bị từ chối đăng bài trước khi được giải
Pulitzer. Trên trang Facebook của mình, anh cho biết hàng trăm lần các bài viết,
các tác phẩm phê bình và văn chương của anh bị từ chối in. Anh còn nhấn mạnh: “Trong suốt thập kỷ qua, tôi đã giữ danh
sách những lời từ chối in tác phẩm, để tránh việc mình gửi tác phẩm ấy cho người
đã từng từ chối nó”!
Bìa sách “The Sympathizer”, Nhà xuất bản Grove Press,
2016
Ở
Chương 3, đại gia đình của “Ông Tướng” gồm cả bà con, họ hàng, viên Đại úy “nằm
vùng” và Bốn, người bạn nối khố của anh đã từng “uống máu ăn thề” từ hồi còn 14
tuổi. Tổng cộng lên đến 92 người và họ đã rời Sài Gòn trên chiếc phi cơ vận tải C-130
Hercules, trực chỉ đảo Guam. Chiếc phi cơ quân sự này được tác giả ví một cách
khôi hài như “một xe rác chở rác có gắn
cánh” (a garbage truck with wings attached).
Cuốn
truyện đi vào một chi tiết rất “kịch tính”: ngay khi phi cơ chở người di tản đáp
xuống Guam, một chiếc xe cứu thương màu quân đội đã chực sẵn để chở xác của Đức
và Linh (vợ con của Bốn). Họ đã chết ngay trên máy bay vì một nguyên nhân “không
rõ”. Bốn trở thành một người chồng mất vợ, người bố mất con ngay trên chuyến
bay đi tìm tự do! Và đó cũng là lý do khiến anh trở nên “chống cộng” một cách điên
cuồng.
Chuyến
bay định mệnh đã được truyền hình trên khắp nước Mỹ ngay chiều hôm đó và khán
giả ngồi trước truyền hình được thấy những khuôn mặt đưa đám của người di tản,
trong đó Bốn sụt sùi đưa tiễn vợ con và những người khác cũng than khóc trong một
đám tang lớn hơn: họ đã mất tổ quốc!
Tại
Guam, một “thị trấn lều vải” (tent city) được dựng lên để đón hàng ngàn người
di tản, Ông Tướng bị thất lạc vali nên vẫn còn giữ trên mình bộ quân phục có gắn
sao. Ông có thiện ý đi ủy lạo người di tản, đa số là dân thường, gồm đàn bà, trẻ
con… Thật bất ngờ, ông bị họ tấn công và nguyền rủa, cả về thể xác lẫn tinh thần.
Đám
đông người di tản bùng lên một cơn giận dữ, họ trút hết lên đầu Ông Tướng và cả
người sĩ quan tùy viên trong bộ quần áo dân sự. Họ thốt lên những lời cay đắng
vì chỉ mới một ngày trước đó tại Sài Gòn, “ông
Thủ tướng cũng là tư lệnh Không quân đã kêu gọi quân đội và cả nhân dân chiến đấu
cho đến người cuối cùng”.
Xin
mở ngoặc ở đoạn này (trang 53) lấy từ sự kiện có thật về Tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Ông Kỳ đã có một buổi nói chuyện tại Nhà thờ Tân Sa Châu, gần Lăng Cha Cả vào
ngày 25/4/1975. Khi đó, ông cam kết một cách hùng hồn rằng sẽ không bỏ nước ra
đi để ở lại bảo vệ Sài Gòn… Chức vụ của ông là Thủ tướng (1965-1967) và Phó Tổng
thống (1967-1971) chứ không phải Thủ tướng vào những ngày cuối tháng 4. Sau khi tuyên bố, ngày 29/4/1975 Tướng Kỳ đã
lái máy bay trực thăng ra Đệ thất Hạm đội, quên hẳn những gì đã tuyên bố tại
Sài Gòn.
Sự
phẫn nộ của người di tản trên đảo Guam được thể hiện qua những lời trách móc, rủa
xả đổ lên đầu Ông Tướng: “Chồng tôi đâu?
Sao ông có mặt ở đây mà chồng tôi không có? Nhiệm vụ của ông là bảo vệ đất nước
như chồng tôi chứ?... Cha tôi đâu? Anh tôi đâu?...”.
Cũng
tại đảo Guam, Ông Tướng đưa cho người sĩ quan tùy viên xem một bức hình trên
trang báo sau khi Sài Gòn thất thủ. Hình chụp một sĩ quan cánh sát VNCH nằm chết
dưới chân bức tượng hai người lính Thủy quân Lục chiến trước tòa nhà Quốc hội.
Nơi đây, trên đường ra phi trường di tản họ đã dừng lại chào bức tượng theo đúng
lễ nghi quân cách.
Cũng
chính nơi đây, Trung tá Ngyễn Văn Long tự sát ngày 30/4/1975 và phóng viên ngoại
quốc cuối cùng đã có cơ hội chụp để cả thế giới được chứng kiến việc tuẫn tiết
của một sĩ quan VNCH. Ông Tướng nói, Trung tá Long mới thật sự là “người anh hùng cuối cùng của cuộc chiến”.
Tấm
gương Trung tá Long là tất cả những gì tương phản với hành động trốn chạy của các
vị tướng và viên chức chính phủ khác. Trong bản “tự khai” của mình, kẻ nằm vùng
viết: “Một vị anh hùng thực sự” (a
real hero). Theo lời anh, khi lập danh sách di tản cho ngành cảnh sát anh có thấy
tên của vị Trung tá nhưng anh đã bỏ qua. Dĩ nhiên, đây chỉ là một chi tiết được
“hư cấu” để Nguyễn Thanh Việt đưa vào tiểu thuyết.
Bìa sau “The Sympathizer”
Nhìn chung, “The Sympathizer” không hẳn là tác phẩm
“hoàn hảo” vì, dầu sao đi nữa cũng có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi
trong văn chương. Năm 1955, Graham Green viết “The Quiet American” cũng lấy
bối cảnh Sài Gòn giữa giai đoạn đầu nền Đệ nhất Cộng hòa trong buổi giao thời
Pháp đi, Mỹ đến. Truyện của ông có những đoạn đề cập đến các địa danh mà chính
người Việt cũng phải nhíu mày thắc mắc vì những cái tên lạ hoắc: Dakow, Tanyin…
Kỳ thật, “Dakow” chính là Dakao nơi có chùa Ngọc
Hoàng mà mới đây Tổng thống Obama đã đến thăm… còn “Tanyin” lại là Tây Ninh, nơi có Thánh thất của đạo Cao Đài. Nhà văn
nước ngoài có thể viết sai các địa danh nhưng ở “The Sympathizer” người đọc cũng gặp những trường hợp tương tự như
của Graham Green.
“One made a right out of the gates
down Thi Xuan left on Le Van Quyet, right on Hong Thap Tu in the direction of
the embassies, left on Pasteur, another left on Nguyen Dinh Chieu, right on Cong
Ly, the straight to the airport”
(trang 24)
Đó là lộ trình
di tản ra phi trường của gia đình Ông Tướng những ngày cuối tháng 4/1975. Biệt
thự của ông chắc nằm ờ Quận 3, trên đường Bùi Thị Xuân (hoặc Thi Sách) chứ Sài
Gòn làm gì có đường “Thi Xuân”? Rồi lại
quẹo trái sang đường Lê Văn Duyệt (đường Cách mạng tháng 8 ngày nay) chứ làm gì
có đường “Le Van Quyet”?
Người đọc nước
ngoài không thắc mắc gì về tên những con đường nhưng, đối với độc giả người Việt
đã một thời gắn bó với Sài Gòn, chắc chắn những cái tên đó rất quan trọng vì nó
đã thuộc về kỷ niệm. Mong rằng ấn bản tiếp theo cần được chỉnh sừa hoàn thiện và
nhất là bản dịch tiếng Việt cần được lưu ý đến những chi tiết nhỏ nhặt này.
Ảnh Nguyễn Thanh Việt trên Facebook do Lin-Manuel Miranda
chụp
Trở
lại chuyện di tản. Từ đảo Guam, người di tản được chuyển vào đất liền Hoa Kỳ bằng
phi cơ dân sự, tác giả mô tả một cách hài hước là “có ghế ngồi thật sự, có cửa sổ” để so sánh với chiếc phi cơ quân sự
lúc rời Việt Nam. Họ được tập trung gần San Diego, California, tại một trại lính
cũ có tên Camp Pendleton, với tiện nghi dĩ nhiên là hơn hẳn ở đảo Guam chỉ toàn
lều do Thủy quân Lục chiến Mỹ dựng lên một cách vội vã.
Cũng
từ Pendleton, viên Đại úy “nằm vùng” bắt đầu liên lạc với “tổ chức” qua địa chỉ
bà cô của Mẫn đang sống tại Paris. Giữa những dòng thăm hỏi trong thư là thông
tin được báo cáo cho Mẫn, viết bằng “mực vô hình” (invisible ink) như trong những
truyện gián điệp khác.
Có
một hôm Ông Tướng tâm sự với người sĩ quan tùy viên là Hà Nội chắc chắn đã tung
vào dòng người tỵ nạn những điệp viên làm việc cho họ. Cách hay nhất để trả lời
cho nghi vấn này, kẻ nằm vùng trả lời là anh tin như vậy. Anh lý luận: “chỉ có gián điệp mới không thừa nhận sự hiện
diện của những gián điệp khác”. Ngay tối hôm đó anh báo cáo với “bà cô” bên
Pháp qua thư về suy nghĩ dè dặt của Ông Tướng…
Với
bằng tốt nghiệp đại học Mỹ lúc trước, kẻ nằm vùng kiến được một công việc tại
thành phố Los Angeles còn gia đình ông tướng được một Đại tá người Mỹ, trước đây
là cố vấn của ông, đứng ra bảo trợ. Ông thuê một căn nhà nhỏ ở ngoại ô LA gần
Hollywood. Anh báo cáo với tổ chức là viên tướng đang trong tình trạng thất
nghiệp, chỉ biết uống rượu hay bia để giải sầu.
Tranh vẽ của Yuko Shimizu trong bài điểm sách “The
Sympathizer” của Philip Caputo
(The New York Times)
Tuy
là tiểu thuyết gián điệp giả tưởng, “The
Sympathizer” cũng mang những nét triết lý trong việc phân tích bản chất đối
nghịch của người Phương Đông và Phương Tây dựa trên lý thuyết của Kipling: “East is East and West is West and never the
twain shall meet”.
Trong
báo cáo của mình, kẻ nằm vùng đã làm hẳn một bản phân tích cá tính giữa Đông và
Tây. Chẳng hạn như về mặt tâm lý, người phương Đông đa số giữ sự tôn trọng chính
quyền trong khi phương Tây lại tỏ ra độc lập trước quyền lực. Phương Đông thường
yên lặng trong khi phương Tây tỏ ra lắm lời.
Phương
Đông thường bi quan khi nhìn tách trà “vơi
một nửa” (teacup is half empty) trong khi phương Tây lại thấy “ly nước vần còn đầy một nửa” (glass is
half full). Người phương Đông luôn “nói
vâng trong khi lòng lại nói không” (say yes when I mean no), ngược lại, người
phương Tây “nói những điều mình muốn nói
và hãy làm những điều tôi nói” (say what I mean, do what I say).
Tôi
nghĩ, quan trọng hơn cả là “cái tình” của người phương Đông nói chung và người
Việt Nam nói riêng. Tuy không trực tiếp nói đến “chữ tình” trong suốt cuốn truyện
của Nguyễn Thanh Việt ta thấy tâm lý các nhân vật lúc nào cũng hành động quanh “chữ
tình”.
Đó
không phải là tình yêu mà là tình bạn sống chết có nhau của bộ ba: Mẫn - Kẻ nằm
vùng và Bốn. Cho dù khác chính kiến giữa Quốc gia và Cộng sản nhưng cả ba luôn
hành động như những kẻ đã từng “uống máu ăn thề” để đối xử với nhau trên một nền
tảng của tình bạn chí cốt.
Nếu
không vì chữ tình, kẻ nằm vùng sẽ sống thoải mái tại đất Mỹ vì “tổ chức” không đòi
hỏi anh đi theo đoàn “phục quốc” trở về Việt Nam. Anh không đành lòng để người
bạn thân tên Bốn lao vào cõi chết nên anh phải đi theo để “bảo vệ” người mà anh
quý hơn ruột thịt.
Người
ta không chọn anh em ruột thịt khi ra chào đời nhưng người bạn mà mình quý mến hoàn
toàn là sự chọn lựa tự nguyện của bản thân. Đó không phải là “tình đồng chí”
theo kiểu Cộng sản mà là “tình đồng đội chí cốt” giữa hai con người.
Mối
tương quan giữa Vị Tướng và viên Đại úy tùy viên tuy là một sự gắn bó theo “hệ
thống quân giai” nhưng luôn có tinh thần của người phương Đông: lấy tình người
để giải quyết. Trong hầu hết các trường hợp, hai người đã xử sự theo một cách
“nhân bản” giữa người và người.
Có
thể nói, những phân tích cặn kẽ về sự khác biệt đó là một trong những nền tảng
để dựng nên “The Sympathizer”. Cũng
chính phân tích giữa Đông & Tây giúp người đọc nước ngoài hiểu được chiến
tranh Việt Nam theo cái nhìn của một tác giả người Việt.
Còn
người Việt chúng ta - dù ở Sài Gòn hay Hà Nội, dù già hay trẻ - có thể “soi rọi
bản thân” để tiếp cận với một cách nhìn mới của một tác giả người Việt thuộc thế
hệ thứ hai đã tạo ra bước đột phá trong văn chương với giải thưởng Pulitzer.
Quan
trọng hơn cả, Việt Nam không phải chỉ có chiến tranh như cách nhìn lâu nay đã sói
mòn của người Mỹ. Nguyễn Thanh Việt đã đem đến cho người đọc một cách nhìn nhân
bản hơn, trong đó có cả buồn-vui theo một trong những cách nhìn của người Việt.
Cách
nhìn đó, dĩ nhiên sẽ gây nhiều tranh cãi từ cả người đọc bản chính bằng tiếng
Anh và bản dịch tiếng Việt. Dù sao đi nữa, “The
Sympathizer” là cuốn tiểu thuyết “hư cấu” dựa vào nhiều chuyện có thật nên
cần đọc và đáng đọc.
Hình trên FB Viet Thanh
Nguyen
(Còn tiếp)
***
(Trích Hồi ức một đời người – Chương 10: Thời xuống
lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh
thổ)
Tác giả còn
dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***