Bốn nhà thơ Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan
Viên và Hàn Mặc Tử được người yêu thơ ở Bình Định ngày xưa mệnh danh
là “Bàn Thành Tứ Hữu”, hiểu nôm na
là “bốn người bạn ở thành Đồ Bàn”.
Đối với Hàn Mặc Tử, dù ông chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi có 28 năm, nhưng lại có duyên với 4 chữ "Bình": Quảng Bình là nơi ông cất tiếng chào đời, Tân Bình là nơi ông làm báo, Bình Thuận là nơi ông có những người yêu và cuối cùng là Bình Định, nơi ông trở về với cát bụi!
Một trong những “Bàn Thành Tứ Hữu”, nhà thơ Chế Lan Viên, đã không ngần ngại khi ca tụng Hàn Mặc Tử:
“Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”
…
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử."
(hết trích)
Thời kỳ mà Chế Lan Viên ca tụng đó
là “Trường Thơ Loạn” mở đầu cho “dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam”
do chính Hàn Mặc Tử khởi xướng và lãnh ấn tiên phong dù tuổi đời
còn trẻ.
Năm 16 tuổi, ông đã bắt đầu làm thơ và nổi tiếng trên thi đàn với bài thơ đầu tiên “Vội vàng chi lắm” họa vận bài “Gởi nhạn” của nhà thơ Mộng Châu. Ông cũng lãng mạn như trong bài “Thức khuya” với những ngôn từ chân thật nhưng lại gợi hình:
“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối,
Gió
thu lọt cửa cọ mài chăn”…
Năm 1936, Hàn Mặc Tử cho xuất bản tập "Gái quê" và cũng chính lúc này ông phát hiện mình bị bệnh phong. Gần cả cuộc đời phải chống chọi với bạo bệnh, cũng là gần trọn cuộc đời, thi sỹ luôn đấu tranh cho khát vọng được sống, được yêu đến quằn quại, đau đớn.
Năm 1938-1939, Hàn Mặc Tử bệnh nặng. Tuy
nhiên, không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ. Trước
ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín – em ruột của nhà thơ cho
biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau:
“Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng”.
Tuy nhiên cũng nhờ những đau khổ trong cuộc đời, cộng với bản năng sáng tạo thiên phú đã chắp cánh cho thi ca Hàn Mặc Tử, đưa ông lên đỉnh cao của văn chương, nghệ thuật hiện đại.
Từ những năm ba mươi, qua tư duy nghệ thuật của mình, Hàn Mặc Tử đã có ý thức đi tìm cái lạ và nung nấu thi hứng sáng tạo. Ông đã có lần tâm sự:
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ - sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn hờn giận đến gần đứt sự sống”.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử vô
cùng phong phú và đa dạng cũng như ông đã từng nói: "Vườn thơ của tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh".
Là một con chiên ngoan đạo, ông đã
từng viết trong chuỗi ngày tìm sự an ủi trong thế giới tâm linh:
“Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh!
Run
như run thần tử thấy long nhan,
Run
như run hơi thở chạm tơ vàng...
Nhưng
lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
Trong giây phút thoát trần ông đã để nguồn cảm xúc thiêng liêng của mình tìm được nơi an nghỉ trong vòng tay ấm áp của Thánh nữ Đồng trinh Maria. Người ta đã đặt tên bài thơ này là “Ave Maria”:
“Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình
tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ
trong trắng như một khối băng tâm
Luôn
luôn reo trong hồn, trong mạch máu
Cũng như bao thi nhân khác, ông được biết
đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn
trong văn thơ. Họ là những người ông đã từng gặp và cả những người ông
chỉ giao tiếp qua thư từ mà chưa từng diện kiến.
Trong số những người đó phải kể đến Mộng Cầm, cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu nên bà cũng có "máu thơ văn".
Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Phan Thiết thăm
Mộng Cầm. Mộng Cầm đã đưa Hàn Mặc Tử lên Lầu Ông Hoàng tọa lạc trên một ngọn
đồi thấp, vào những đêm trăng tỏ, có thể nhìn thấy Mũi Né và thị xã Phan Thiết
mờ ảo, lấp lánh đèn ghe chài như những viên kim cương khổng lồ.
Không ngờ rằng đây lại là lần đi chơi sau cùng của hai người. Có một giai thoại kể khi Hàn Mặc Tử đi dạo với với Mộng Cầm ở Lầu Ông Hoàng qua một nghĩa trang có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện những đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà và hôm sau ông thấy trên người mình cũng có những hiện tượng như vậy!
Ông bỏ tất cả để quay về Qui Nhơn, vào nhà
thương Quy Hòa ngày 20/9/1940, mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ
45 phút rạng sáng 11/11/1940 tại nhà thương vì chứng bệnh… kiết lỵ. Khi đó, Hàn
Mặc Tử mới bước sang tuổi 28.
Tình yêu của ông đã đi vào nhạc qua những sáng tác của những người hâm mộ thơ ông. Nổi bật nhất là “Trường ca Ave Maria”, bao gồm những đoản khúc “Song Lộc Triều Nguyên”, “Dâng Lời Cảm Tạ”, “Tấu Lạy Bà” của Hải Linh, một nhạc sĩ chuyên sáng tác thánh ca.
Dòng nhạc bình dân cũng có ca khúc “Hàn Mặc Tử” do Trần Thiện Thanh sáng tác năm 1961 với phần mở đầu:
“Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Trăng
nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai
mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng
bán tình duyên ước hẹn hò...
Trăng là một trong những đề tài thường thấy trong thơ Hàn Mặc Tử bên cạnh cách dùng từ ngữ, hình ảnh của một con người phải trải qua những nỗi đau thể xác và tinh thần. Tuy vậy, giọng thơ nói chung không bi quan mà luôn mơ ước, hướng tới một thế giới vĩnh hằng.
“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi
gió đông về để lả lơi
Hoa
lá ngây tình không muốn động
Lòng
em hồi hộp chị Hằng ơi”
Có thể nôi, ông là một “ánh sao tắt lịm” trên bầu trời thi
ca. Ánh sao ấy đã vụt tắt nửa chừng nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Với cái
tên Hàn Mặc Tử, ông hàm ý “một kẻ
đơn lạnh”, và đó đúng là dự báo một cuộc đời cô đơn, khắc
nghiệt!
Một nửa đời người chưa qua hết nhưng Hàn Mặc Tử đã làm tròn sứ mệnh của một thi sĩ và để lại cho nền văn học Việt Nam một… “đời thơ đau khổ”!
***
* Nghe lại bài hát “Hàn Mặc Tử”, sáng tác của Trần Thiện Thanh, do chính tác
giả trình bày tại:
https://www.youtube.com/watch?v=zhTsNc7yaHM&t=57s
***