Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên và bản nhạc cuối đời: Tóc Xưa

Tôi vốn là người “mê” mái tóc của phụ nữ. Có điều hơi khó tính, phải là tóc dài, thi vị hơn chút nữa là mái tóc đó tung bay theo gió. Kho tàng nhạc Việt đã có khá nhiều bài hát ca tụng những mái tóc. Thời còn thanh niên, bản nhạc “Tóc Mây” của Phạm Thế Mỹ là một trong số những bài hát tôi thích nhất, cả về ca từ lẫn âm điệu [*]:

                           
“Theo gió heo may đêm đêm gợi tình
Một trời áo tím trong mắt trên môi
Như chiếc nôi êm ru cơn mộng lành
Gọi vầng trăng cũ sáng cho hồn vui…”


“Tóc Mây” của Phạm Thế Mỹ không chỉ đơn thuần là… tóc mây. Theo tuần hoàn của vũ trụ, tóc mây có màu hồng trong “mùa hè vui đôi chân chắp cánh”, biến thành “tóc mây dài” vào mùa đông “môi em thắp sáng”, qua đến mùa xuân “cây thay áo mới” lại là “tóc mây vàng” và cuối cùng là “tóc mây buồn” vào mùa thu “xôn xao lá úa”:


“Mùa hè vui đôi chân chấp cánh
Tóc mây hồng cho mắt long lanh
Trời mùa đông môi em thắp nắng
Tóc mây dài, chân vui đường vắng

Rồi mùa xuân cây thay áo mới
Tóc mây vàng cho nắng thêm tươi
Rồi mùa thu xôn xao lá úa  
Tóc mây buồn phủ kín tim tôi…”



Gần đây có một bài hát về tóc mà ít người biết đến qua một cái tên rất lạ: “Tóc Xưa” của Ngô Thụy Miên. “Lạ” vì bài này được sáng tác tại hải ngoại năm 2014 khi nhạc sĩ bước vào những năm tháng cuối đời. “Lạ” hơn nữa là bài “Tóc Xưa” có xuất xứ từ một bài thơ của một bác sĩ người Việt xa quê, sinh sống tại Anh Quốc.

Câu chuyện về “Tóc Xưa” có liên quan đến 3 người: 2 bác sĩ và một nhạc sĩ. Trước hết là anh Dương Văn Thiệt, nghề chính là bác sĩ nhưng lại nột nhà thơ “tay ngang”. Vợ anh Thiệt, chị Thọ Chí, chẳng may lìa đời. Anh Thiệt rất thương vợ, sau khi chị mất anh tình cờ thấy được một sợi tóc của người quá cố vẫn còn vương trên gối. Trong cơn xúc động, anh viết một bài lục bát lấy tên là… “Tóc Xưa”:


“Ngày nào nhặt tóc quanh đây
Sợi nằm bên gối sợi bay ra vườn
Sợi dài buộc mối yêu thương
Sợi ngắn cột lấy nỗi buồn xa quê

Mượt mà một thuở tóc thề
Gió lùa qua tóc mân mê vai mềm
Sợi nào đánh rớt bên thềm
Nhặt về chờ tối ru đêm giấc nồng

Sợi nào sáng gội chiều hong
Gió đưa hương tóc qua song cửa mành
Lạc vào ngõ vắng nhà anh
Quen người quen cảnh không đành rời xa

Tóc nào đen óng hôm qua
Gởi vào trang sách bên ta mỗi ngày
Sợi nào là sợi tóc mai
Loà xoà bên trán làm ai phải lòng

Để mà sáng đợi chiều trông
Sợi kề bên má sợi hôn môi người
Sợi nào từ thuở đôi mươi
Tóc tơ se kết tiếng cười nỗi đau

Sợi nhìn ngày tháng qua mau
Tóc xanh hôm trước bạc màu hôm nay
Tóc xưa giờ đã xa bay
Sợi buồn ở lại ngắn dài xót xa”

DVT (2013)



Một người bạn của anh Thiệt, anh Lê Văn Thu, cũng là bác sĩ, vốn trân trọng tình cảm của anh Thiệt đối với người vợ quá cố và cũng rất cảm động về những lời thơ ray rứt nên đã mạo muội viết một bức thư cho nhạc sĩ Ngô Thụy Miên. Thư anh Thu, đề ngày 18/2/2014, có đoạn viết:

“Tôi có một người bạn cùng lớp y khoa, hiện ở bên Anh, mới mất vợ cách đây gần 2 năm. Anh ấy rất thương vợ và đã làm rất nhiều thơ. Khi chị ấy mất, anh đã chôn hết thơ theo vợ; nhưng mới đây, trong một lần thấy được sợi tóc của vợ sót lại bên gối, anh đã viết được một bài thơ mà chúng tôi khi đọc đều thấy xúc động.


“Biết anh là một nhạc sĩ có tài phổ nhạc - chính những bản nhạc phổ thơ của anh mà mọi người, nhất là giới sinh viên thuở trước, mới biết đến Nguyên Sa - tôi xin mạn phép gởi anh bài thơ “Tóc Xưa” để anh xem. Nếu như bài thơ gợi cho anh chút cảm hứng thì xin anh phổ nhạc giùm. Anh Thiệt không nhờ tôi, nhưng tôi vốn rất thương anh ấy qua tư cách và tình cảm của anh ấy, và đồng thời rất quí trọng Thiệt, mặc dù mới quen - thấy anh chị rất hiền hòa, đôn hậu, khiêm nhượng - nên muốn được làm trung gian để giới thiệu bài thơ đó với anh.”


Đến ngày 5/8/2014 anh Thu nhận được email của Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên với nội dung sau:

“Dear anh Thu,

Viết vội gửi anh bản chép tay Tóc Xưa tôi phổ từ bài thơ của anh Dương Văn Thiệt. Tiếc là sáng nay mới biết software Encore viết nhạc của tôi bị bịnh, nên không thể gửi bản máy computer viết đẹp hơn nhiều!

Như anh đã biết vì hoàn cảnh riêng, tôi đã không còn sinh hoạt âm nhạc, văn nghệ... Nhưng mến anh chị, cũng như quí tình bạn của 2 anh, và nhất là tình nghĩa vợ chồng của anh Thiệt, tôi phổ nhạc bài thơ Tóc Xưa và mong đó là một kỷ niệm đẹp cho anh ấy.

Thân,
Bình"




Ngô Quang Bình là tên thật của nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên, người đã một thời nổi tiếng với những bản nhạc trữ tình mang phong cách nhạc cổ điển. Thanh niên, thiếu nữ thời đó thuộc nằm lòng những lời ca “kinh điển” như…"nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông" hay "áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, áo nàng xanh tôi mến lá sân trường"…

Tất cả những ca từ đó có nguồn gốc từ thơ Nguyên Sa, giáo sư Triết, tên thật là Trần Bích Lan. Có thể nói, chính Ngô Thụy Miên đã chắp cánh cho những lời thơ Nguyên Sa để biến ông thành một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950 với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Tuổi mười ba", "Tháng Sáu trời mưa"…

Theo Ngô Thụy Miên, bản nhạc ông ưa thích nhất lại là "Paris Có Gì Lạ Không Em". Ông giải thích:

“Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi dù trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường Paris, hay lang thang bên bờ sông Seine nhớ đến một cuộc tình? Paris như một lời kêu gọi, một nơi chốn tìm về cõi tình yêu”.

Từ bài thơ đó, Ngô Thụy Miên đi tìm một điệu nhạc để chuyên chở ý thơ hay phải đổi lời thơ để nhập vào ý nhạc. Ông tâm sự: "Paris Có Gì Lạ Không Em" khi đọc lên, tôi đã nghe phảng phất tiếng phong cầm rộn rã của nhịp 3 luân vũ. Trên phím dương cầm, giòng nhạc dồn dập, chạy dài trên 10 đầu ngón tay, tôi đã hoàn tất phổ bài thơ trong một ngày đầu xuân năm 1971”.

Mở đầu bài hát là cung Ðô trưởng:

“Paris có gì lạ không em
Mai anh về, em có còn ngoan”.


Thế rồi đến câu “Là áo sương mù hay áo em…” từ cung Ðô trưởng lại chuyển qua La thứ để vào phần điệp khúc:

“Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây”.


Như đã nói ở trên, Ngô Thụy Miên là một nhạc sĩ chịu nhiều ảnh hưởng của nhạc cổ điển Tây Phương và đôi khi nhạc của ông lại mang phần nào âm hưởng của thánh ca như trong bài “Từ giọng hát em”. Bài hát này và bài “Mắt Biếc” đều được viết theo âm giai trưởng. Ngay tình khúc duy nhất Ngô Thụy Miên viết tại Sài Gòn sau năm 1975, “Em Còn Nhớ Mùa Xuân” cũng được viết theo tông trưởng. 




Trở lại chuyện “Tóc Xưa”, Ngô Thụy Miên đã gửi cho người bạn đồng môn trường Nguyễn Trãi, Lê Văn Thu, không chỉ một mà là hai bản phổ nhạc theo cung trưởng và thứ với lời giải thích:

“Hình như ở tuổi 60-70, người ta thường hay nhắc đến, hoặc dùng chữ "Xưa" như mắt xưa, áo xưa, dáng xưa, người xưa,... để kể lại một câu chuyện, để nhắc lại một ngày tháng nào? Có phải "Xưa" đó luôn là những kỷ niệm đẹp không hề phai tàn qua năm tháng, là những nỗi nhớ nhung chẳng hề quên lãng qua bao thăng trầm, đổi thay của cuộc sống?

Có lẽ trong trái tim của tất cả chúng ta , "Xưa" cũng chính là nỗi mất mát, niềm tuyệt vọng nào đó đã thoáng qua nhưng mãi ở lại vĩnh viễn trong ký ức sâu thẳm nhất của đời mình”.


Trước nhất là bản viết tay phổ nhạc theo “Tóc Xưa” viết theo âm giai trưởng. Điều đặc biệt là lời thơ được giữ nguyên văn, không sửa một chữ. Thông thường, khi nhạc sĩ phổ một bài thơ thường phải sửa đổi một số câu chữ cho hợp với âm điệu của bài hát. Nhưng Ngô Thụy Miên đã không làm như vậy.

“Tóc Xưa” viết theo cung trưởng qua tiếng hát Đinh Thanh Tuyền


Một tuần sau, anh Thu lại nhận được bản “Tóc Xưa” thứ hai do Ngô Thụy Miên viết theo cung thứ. Khi chuyển lại cho tác giả bài thơ, anh Thiệt quá xúc động, anh nói sẽ đóng khung bản nhạc và để bên cạnh di ảnh của vợ với hy vọng chị sẽ được an ủi về món quà đầy ý nghĩa này.

Sau này, trong thư trao đổi giữa Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên và Nhà thơ Dương Văn Thiệt, Ngô Thụy Miên viết:

“Mong rằng khi anh vui hãy nghe version 2, và khi buồn thì nghe version 1. Đó là để cân bằng tâm hồn mình với một kỷ niệm sống mãi với thời gian và không gian...”


Mời các bạn vào Youtube để thưởng thức “Tóc Xưa”, version 2:


Cả hai bản “Tóc Xưa”, âm giai trưởng và thứ, đã được ca sĩ Đoàn Thanh Tuyền, em vợ nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên (tức con gái thứ của cố nghệ sĩ Đoàn Châu Mậu), soạn hoà âm, đệm đàn và hát. Đoàn Thanh Tuyền là người đã cùng Đức Huy xuất hiện chung ở Saigon thập niên ‘70 trong hai vai trò, nhạc sĩ và ca sĩ chính, của ban nhạc trẻ Đức Huy.

Giọng hát Đoàn Thanh Tuyền vẫn mượt mà và “Tóc Xưa” với phong cách quý phái, cổ điển đã đưa người nghe vào không gian mộng mị của một cặp vợ chồng chung quanh những sợi tóc. Đoạn kết buồn khi người vợ ra đi về bên kia thế giới để lại trên gối một sợi tóc lẻ loi…

“… tóc xưa giờ đã xa bay, sợi buồn ở lại ngắn dài xót xa”.

***

Chú thích:

[*] Mời nghe “Tóc Mây” của Phạm Thế Mỹ qua giọng ca Khánh Hà:
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/toc-may-khanh-ha.7lL8D2eiig.html
***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:

1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

Chuyện thần thoại kiểu Mỹ

Billy Ray Harris, 55 tuổi, là một người lang thang không nhà cửa. Ông ăn xin tại đầu đường Kansas, thuộc tiểu bang Missouri miền Trung nước Mỹ. Có một cô gái tên Sarah Darling đi ngang qua, cho vào trong ly của ông một ít tiền lẻ, nhưng cô không biết là chiếc nhẫn trên tay cũng vô tình rơi vào ly.


Đến lúc Billy thấy chiếc nhẫn, ông tính đem bán vì có tiệm ra giá 4.000 đô-la. Đối với một người lang thang, đó là cả một gia tài. Tuy nhiên, Billy lại do dự… Sau mấy ngày suy nghĩ, ông quyết định sẽ đem nhẫn trả lại cho người đã mất. Hằng ngày, ông kiên nhẫn ngồi đợi người chủ của nó.

Cuối cùng, Sarah cũng nhận lại chiếc nhẫn, cô vô cùng cảm kích, bởi đó là chiếc nhẫn đính hôn của cô. Để tỏ lòng biết ơn, Sarah và người chồng tương lai quyết định sẽ kể lại câu chuyện chiếc nhẫn trên mạng với mục đích quyên tiền cho Billy, giúp ông có một cuộc sống bình thường như mọi người. 


Hai người hy vọng họ có thể quyên được vài ngàn đô-la. Thật không ngờ, nhiều người sau khi nghe câu chuyện đó rất xúc động vì lòng trung thực của người vô gia cư. Ba tháng sau Sarah đã quyên được gần 190 ngàn đô-la. Billy dùng số tiền đó mua nhà, mua xe… nhưng vận may vẫn đến tiếp theo đó.


Sau khi câu chuyện của Billy được truyền thông đưa tin, người chị đã thất lạc 16 năm thấy ảnh ông trên tivi và cuối cùng đã tìm được ông. Phần Billy cứ nghĩ rằng người chị này đã qua đời.

Billy không chỉ có tiền và tìm lại được người thân mà còn có người bạn tốt là Sarah và gia đình cô. Sau khi Sarah kết hôn, cô nói sẽ kể cho con về sự gắn bó của Billy với gia đình cô. Hơn nữa, câu chuyện “thần thoại” này sẽ giúp các con cô hiểu được điều gì là đúng, điều gì là sai.


Bây giờ, khi mọi người nhìn thấy Billy, họ không quyên góp mà nắm tay chúc mừng ông. Billy nói, khi nhớ lại chuỗi ngày khó khăn, ông vô cùng cảm ơn đời đã đem đến cho ông một cơ hội, cho ông quay lại cuộc sống của một người bình thường. Ông tự hứa với mình sẽ sống thật tốt để những ân nhân của ông không phụ lòng.

Quả là một câu chuyện “thần thoại” kiểu Mỹ, thử thách về lòng tham của con người trước những cám dỗ của cuộc đời.

Tôi nghĩ, “không tham lam những gì không phải của mình” là một bài học đơn giản nhưng chắc gì trong chúng ta thực hiện được điều đó?

Hãy nhớ: “Ở hiền gặp lành”. 



*****

Bình luận trên Facebook:




 

*** 

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:

1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

Đọc lại Truyện Kiều

"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn;
Tiếng ta còn, nước ta còn...''

Học giả Phạm Quỳnh đã không tiếc lời đề cao Truyện Kiều như một áng văn tuyệt tác của nền văn học Việt Nam nói riêng và, ở một mức độ bao quát hơn, là sự gắn bó giữa kiệt tác của Nguyễn Du và ngôn ngữ Việt.

Ngày xưa, chuẩn mực cho thanh niên rất đơn giản: đánh tổ tôm, uống trà và…đọc Truyện Kiều. Ba thú vui đó đã làm nên một người đàn ông mẫu mực của thời đại phong kiến: 

“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống chè mạn hảo, xem Nôm Thúy Kiều”

Tuy nhiên, cũng có ý kiến “phản biện” khi các cụ lại liệt Truyện Kiều là “dâm thư” trong bối cảnh một nền văn hóa lễ giáo của Khổng, Mạnh. Thế cho nên mới có lời răn nghiêm khắc:

“Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều...”

Cho dù có chống đối hay ca tụng, hiển nhiên Truyện Kiều đã giữ một vị trí quan trọng trong lòng người Việt, từ lớp bình dân cho đến trí thức. Chẳng thế mà chúng ta có những biến thể từ Truyện Kiều như “bói” Kiều, “lẩy” Kiều bên cạnh các hoạt động văn hóa như “vịnh” Kiều, “tranh” Kiều.

Tranh chị em Thúy Kiều gặp Kim Trọng trong ngày Tết Thanh Minh
của họa sĩ Lê Chánh, treo trong dinh Độc Lập thời VNCH
  
Trước khi bàn đến những biến thể của Truyện Kiều trong dân gian, xin viết đôi giòng về sức lan tỏa của Truyện Kiều. Sự phổ biến của Truyện Kiều không những ở trong nước mà còn đi vào văn học thế giới. Đã có hàng loạt bản dịch cũng như các bài bình luận Truyện Kiều bằng rất nhiều ngôn ngữ - Anh, Pháp, Nhật, Đức, Hoa, Ba Lan, Thụy Điển - của các tác giả người Việt cũng như người nước ngoài.

Lại nhớ đến chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Bill Clinton năm 2000. Trong một buổi tiệc chiêu đãi tại Hà Nội, ông Clinton đã khiến thực khách đi từ ngỡ ngàng đến sửng sốt khi ông dùng 2 câu thơ trong Truyện Kiều để ví mối bang giao Việt-Mỹ sau thời kỳ chiến tranh:

“Những hình ảnh băng giá của quá khứ đã bắt đầu tan và những phác thảo về nột tương lai ấm áp chung đã bắt đầu hình thành. Chúng ta hãy cùng nhau tận hưởng mùa xuân mới” [Frozen images of the past have begun to thaw and outlines of a warmer shared future have begun to take shape. Let us make the most of this new spring together].  

Lấy ý từ Truyện Kiều:

“Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân”

[Just as the lotus wilts, the mums bloom forth
Time softens grief, and the winter turns to spring”]

Hóa ra ngoài lĩnh vực văn hóa, xã hội, Truyện Kiều đã được đưa vào chính trị. Điều oái oăm, người ví von lại là Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ chứ không phải là những nhà “Kiều Học” Việt Nam [1].

 
“Kim Van Kieu” bản dịch tiếng Anh của Lê Xuân Thủy
(Nhà sách Khai Trí, 1968)

Tôi còn nhớ ngày xưa mẹ tôi rất tin vào việc bói Kiều, một hình thức giải quyết những thắc mắc, hồ nghi qua bói toán dựa vào Truyện Kiều. Đặc biệt, ngày đầu năm là dịp để bói Kiều với khởi đầu là lời khấn vái thành kính:

“Lạy vua Từ Hải
Lạy vãi Giác Duyên
Lạy tiên Thuý Kiều” 

Miệng lâm râm khấn, tay cầm Truyện Kiều với ước nguyện điều mong mỏi. Hai ngón tay cái mở Truyện Kiều một cách ngẫu nhiên, ngón tay nằm ở dòng nào thì 4 câu Kiều trong truyện chính là quẻ bói. Chẳng hạn gặp 4 câu lục bát tả cảnh tai họa đến với gia đình Thúy Kiều:

“Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”.

Gặp 4 câu này, người xem bói cũng có thể đoán được tương lai bất trắc, điềm tai họa sẽ đến. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó có thể là một vụ “cưỡng chế” đem lại nhiều điều vô lý, bất công trong một xã hội mà luật pháp không được tôn trọng!

Cảnh tai họa diễn ra tại nhà viên ngoại họ Vương
(Tranh của họa sĩ Tú Duyên)

Trong khi “bói” Kiều dựa trên tính cách thần bí thì “lẩy” Kiều là một hình thức chơi chữ dựa theo thơ văn. Người ta có thể lấy một câu Kiều, sửa đổi một vài chữ cho thích hợp với hoàn cảnh của mình. Lẩy Kiều đôi khi có giọng điệu khôi hài nhưng cũng có khi diễn tả một trạng thái nghiêm chỉnh.

Những ai đã từng trải qua “thời điêu linh” sau năm 1975 tại Việt Nam không khỏi rùng mình mỗi khi nhớ lại cái thời “tem phiếu”, “nhu yếu phẩm”… Tất cả mọi mặt hàng đều do nhà nước phân phối, công nhân viên ngoài lương thực còn được phép mua những mặt hàng “xa xỉ” như vải vóc, quần áo… Có gia đình toàn phụ nữ lại được phân phối dao cạo râu, áo may ô… Thế cho nên mới có câu lẩy Kiều, than thân trách phận:

“Bắt ở trần phải ở trần
Cho may ô mới được phần may ô”.

Đó chính là câu lấy từ Truyện Kiều:

“Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”


Tranh Thúy Kiều & Kim Trọng của họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm

Trong lĩnh vực thơ phú, “vịnh” Kiều là dựa vào các nhân vật trong truyện, được sáng tác qua cách giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một vấn đề nào đó.

Ngay từ đầu truyện, “thằng bán tơ” là đầu mối của mọi gian truân trong suốt cuộc đời “ba chìm, bẩy nổi” của Kiều khiến nàng phải “bán mình chuộc cha” với giá 300 lượng:

“Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”.

Nguyễn Khuyến đã mượn nhân vật “thằng bán tơ” để phác họa hình ảnh một xã hội Việt Nam đầy bất công. Trong bài “Vịnh thằng bán tơ” ông viết:

“Có tiền việc trước mà xong nhỉ,
Thời trước làm quan cũng thế a?”


Thật ra Nguyễn Khuyến không chỉ vịnh Thằng Bán Tơ mà ông cất tiếng tố cáo tệ nạn tham nhũng của xã hội thời Thúy Kiều. Cho đến ngày nay, khi đọc lại Truyện Kiều người ta mới chợt ngộ ra: xã hội xưa cũng chẳng khác gì ngày nay, xem ra tham nhũng còn tinh vi và rầm rộ hơn cả thời trước.


“Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ”
[Tranh minh họa trong “Kim Van Kieu” bản tiếng Anh của Lê Xuân Thủy]

Bên cạnh thằng bán tơ, còn rất nhiều nhân vật “chủ chốt” đã xuất hiện trong suốt cuộc đời nàng Kiều. Trước nhất phải kể đến Sở Khanh. Từ cái tên Sở Khanh trong truyện, ngày nay đã trở thành một danh từ chung chỉ những loại đàn ông chuyên đi lừa tình và lợi dụng phụ nữ. Nguyễn Du mô tả Sở Khanh bằng hai câu lục bát:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”

Sở Khanh, ở một mức độ nào đó, có thể ví như Cassanova [2] hoặc Don Juan [3] bên trời Tây. Cái khác là Sở Khanh trong Truyện Kiều tượng trưng cho loại đàn ông có sức “hớp hồn” phụ nữ nhưng loại thanh niên này không chỉ thích chinh phục phái yếu mà còn lợi dụng cái mã bề ngoài để thực hiện những âm mưu có lợi cho bản thân mình. Chính chàng họ Sở đã đưa đẩy một nàng Kiều trong trắng lạc vào lầu xanh:

“Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
Một tay chôn giết mấy cành phù dung”


Sở Khanh & Tú Bà

Hồi còn đi học, đọc Truyện Kiều tôi rất ghét nhất cái tên “Hoạn Thư”. Đối với một học sinh trung học như tôi, cái tên Hoạn Thư đọc lên thấy xấu xí, nghe như có liên quan đến “hoạn quan” trong triều đình, chuyên lo đến các cung nữ của vua.

Mãi cho đến khi trưởng thành tôi mới hiểu, cái tên Hoạn Thư đơn thuần chỉ là “tiểu thư họ Hoạn” và được Nguyễn Du mô tả là xuất thân trong một “gia đình danh giá”, lấy người chồng có tên là Thúc Sinh (anh học trò họ Thúc), thuộc loại “ăn chơi đàng điếm”, “bán trời không văn tự” nhưng lại có tật… sợ vợ!

Đó cũng là cái đích để Nguyễn Du khai thác, hay nói khác đi, ông muốn chứng minh “chân lý bất di bất dịch” của phụ nữ qua câu ca dao:

“Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”

Cơn ghen của Hoạn Thư được nhiều nhà phê bình mô tả là “khốc liệt”, “khủng khiếp”, “tàn bạo” mà theo thời nay có những biến thể như “cắt của quý”, tạt át-xít, đánh “dằn mặt”. Tuy vậy, cũng có những người như nhà văn Tạ Quang Khôi mệnh danh là… “cái ghen nhân từ của Hoạn Thư”. Tâm trạng của “sư tử Hà Đông” tuy rối bời nhưng ít ra Hoạn Thư còn biết bình tâm suy nghĩ:

"Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình”.

Tôi lại nghĩ khác. Ghen tuông thời của Truyện Kiều bị ảnh hưởng bởi quan niệm “trai năm thê, bảy thiếp”, “vợ lẽ, vợ mọn” là vấn đề được xã hội công nhận nên chi người phụ nữ dù cũng ghen tuông nhưng chỉ giới hạn ở mức độ nào đó. Còn thời nay thì “phụ nữ vùng lên” đòi hỏi quyền bình đẳng “một vợ, một chồng”, đấng này râu nào trót lỡ vi phạm thì chỉ có tính cách lén lút mà thôi.

Máu ghen của Hoạn Thư mang tính cách “thâm trầm” nhưng lại không kém phần… “thâm độc”. Tiểu thư họ Hoạn đã giải quyết chuyện đèo bồng của Thúc Sinh bằng mưu kế chứ không như “sư tử Hà Đông” ngày nay nhất quyết phải “tính sổ” tình địch bằng vũ lực. Có điều các đức ông chồng xưa cũng như nay, không ít thì nhiều, đều có tính hoặc “cả nể” hay tệ hại hơn là… sợ vợ. Cho dù các ông cố biện minh là “sợ vợ mình” chứ đâu có sợ ai khác! 
  

Tranh dân gian: “Đánh ghen”

Các cụ ngày xưa coi Truyện Kiều là “dâm thư” chính vì sự xuất hiện của cặp bài trùng Mã Giám Sinh & Tú Bà trong giới lầu xanh. Nguyễn Du viết 4 câu lục bát về Mã Giám Sinh chuyên nghề “chăn dắt gái” và cũng là chồng của Tú Bà:

“Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đen,
Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa”

Mã Giám Sinh đi khắp nơi để tuyển về cho Tú Bà một đội ngũ “chân dài, móng đỏ”. Không những thế, hắn còn “tự thưởng” mình bằng cách “thử hàng” mỗi khi mua được món hàng “tài sắc vẹn toàn” như nàng Kiều.

Tú Bà, một “má mì” thời nay, kết hợp với Mã Giám Sinh thành một “công ty mua bán thịt tươi” chuyên cung cấp “dịch vụ tươi mát” cho khách làng chơi. Thế là “mạt cưa, mướp đắng” biến thành một tổ hợp kinh doanh “nghề không vốn” trên thân xác của những tiểu thư khuê các như nàng Kiều:

Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”.

Nhan sắc của Tú Bà thuộc loại “không thể nào xấu hơn” với màu da “nhờn nhợt” cộng với một thân hình “cao lớn đẫy đà”:

“Thoắt trông nhờn nhợt màu da.
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao”

Nét đẹp của Tú Bà thì hoàn toàn không có nhưng mụ lại là cả một kho kinh nghiệm trong nghề “buôn phấn, bán hương”:   
“Nghề chơi cũng lắm công phu
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều”

Nào là những chiêu thức “mập mờ đánh lận con đen” để qua mặt khách làng chơi bằng những “kỹ thuật” như:

“Nước vỏ lựu, máu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên”.

Hơn thế nữa, mụ còn dạy các đệ tử của thần Bạch Mi một loạt những “kỹ thuật” chiều chuộng khách làng chơi:

“Mụ rằng: "Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay
Nỗi đêm khép hở nỗi ngày riêng chung
Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề" [4]

Thế nào là “bảy chữ” và thế nào là “tám nghề”? Xin xem chú thích nếu người đọc tò mò muốn biết. Ấn Độ có Kama Sutra [5], Trung Hoa có Nhục Bồ Đoàn [6] còn ở Việt Nam, Truyện Kiều bị coi là “dâm thư” cũng không có gì là… “oan uổng”.

Hẹn tái ngộ cùng người đọc Truyện Kiều vào một dịp khác vì chúng ta khi đọc lại còn có rất nhiều điều, tốt cũng như xấu, để nói. Xin mượn 2 câu cuối của Truyện Kiều thay lời kết cho bài viết này:

“Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh”.

***

Chú thích:

[1] Chắc hẳn những cố vấn người Việt của Tổng thống Clinton đã phải làm việc tích cực trong việc soạn những bài diễn văn cho ông Clinton trong chuyến thăm chính thức Việt Nam năm 2000. Tổng thống Clinton đã tỏ ra rất am hiểu về lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam, ông cũng rất tự tin khi trình bày những vấn đề này trước cử tọa người Việt thuộc mọi thế hệ và thành phần xã hội tại Hà Nội cũng như Sài Gòn.  

Xem thêm bài viết “Bên Thắng Cuộc/Quyền bính (3): Lê Khả Phiêu & Bill Clinton”

[2] Cassanova: tên thật của Giacomo Girolamo Casanova de Seingalt (1725 – 1798), một một “tay chơi” người Ý. Phụ nữ là “chuyện lớn” của đời ông. Tài liệu ghi lại rằng Casanova có đến 122 người tình trong quãng thời gian gần nửa thế kỷ. Trong số đó, nhiều người đã mang đến cho Casanova niềm đắm đuối, có người mang đến cho ông tai họa, bệnh tật và đau khổ. Một số tình nhân của ông là người đức hạnh, còn số khác thì phóng túng. Nhưng nói chung, tất cả những người tình của Giacomo Casanova đều “biết ơn” ông bởi Giacomo Casanova đã biết cách yêu họ say đắm, biết cách chiếm đoạt họ một cách nhiệt thành và cũng đã biết cách rời bỏ họ một cách lịch lãm.

[3] Don Juan: một nhân vật trong văn học Tây Ban Nha, xuất hiện lần đầu trong kịch  El burlado de Sevilla y convidado de piedra của Tirso de Molina (công diễn năm 1613, in thành sách năm 1630). Don Juan là người vô thần, dám phỉ báng Chúa, thích phiêu lưu trong chuyện tình ái, có tài quyến rũ, lừa đảo phụ nữ thuộc nhiều tầng lớp xã hội, từ nữ công tước, nữ quý tộc cho đến những cô gái quê.

[4]  “Vành ngoài” là bề ngoài, là cách đối xử với khách làng chơi. "Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng chữ để dễ nhớ.

1. Khấp: khóc lóc tỉ tê khiến khách xúc động thương xót.
2. Tiễn: giả cắt tóc thề nguyền để khách tin.
3. Thích: viết tên khách vào tay mình, giả ý thương yêu.
4. Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách.
5. Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả xin làm vợ lẽ.
6. Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ lòng chung thuỷ.
7. Tử: giả liều chết để khách khuyên ngăn.

"Vành trong" là bề trong, là cách đối xử bên trong với khách. "Tám nghề" là cách ân ái với khách, chung đụng nhau và tuỳ từng tính cách của mỗi đối tượng, để làm cho khách khoan khoái về nhục dục.

1. Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích cổ thôi hoa"
2. Tiếp người to béo thì dùng cách "kim liên song toả"
3. Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại xiển kỳ cổ"
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn đả khinh khao"
5. Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn khuyên tam trật"
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả trì hữu trì"
7. Tiếp người si tình thì dùng cách "toả tâm truy hồn"
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp thần nhiệm toả"

[5] Kama Sutra là một cuốn sách Ấn Độ cổ, biên khảo về tình dục được viết bằng tiếng Phạn. Tác phẩm gồm 7 phần, với khoảng 1.250 khổ thơ được cho là do thiền sư Bà la môn Mallanaga Vatsyayana, sống ở Pataliputra, phía bắc Ấn Độ, viết vào thế kỷ thứ III.

Theo tiếng Phạn, "Kamadeva" là tên của vị thần tình yêu thể xác (tương tự thần Eros hay Cupid của Hy Lạp) và "Sutra" có nghĩa là "kinh" hoặc "châm ngôn".

Kama Sutra được hiểu là Kinh Hoan Lạc hoặc là những luận bàn về tình yêu thể xác. Những luận bàn đó có nguồn gốc từ nhiều thế kỷ trước công nguyên và đến thế kỷ thứ III, thì được Vatsyayana tập hợp lại thành tuyển tập với nhiều tranh minh hoạ, nhiều lời khuyên và nhiều hình ảnh mô tả tư thế tình dục.

Kama Sutra đề cập đến nhiều khía cạnh trong đời sống tình dục, như mô tả các tư thế giao hợp, những gì đôi bạn tình chờ đợi ở nhau và đưa ra lời khuyên hữu ích. Các vấn đề tình dục được Kama Sutra đề cập rất chi tiết, cụ thể, như vấn đề "kích thước" vấn đề hoà hợp tình dục; "lệch pha" thời điểm, lệch pha ham muốn; vai trò của trí tưởng tượng; những tư thế, kiểu vuốt ve, ôm ấp; cách sửa chữa thất bại khi không làm cho phụ nữ được thoả mãn...

[6] Nhục Bồ Đoàn là một tác phẩm văn học của Trung Hoa, dùng mặt trái để nói lên mặt phải. Nhân vật chính của truyện là Bán Dạ Sinh, biệt hiệu của một chàng trai trẻ đam mê tửu sắc, thích ban đêm mà không thích ban ngày, thích lúc nửa đêm mà không thích sau nửa đêm. Đây là người không thích công danh, tự phụ là người thông minh tài hoa nhất trên đời và muốn có những người đẹp nhất thiên hạ.

Một vị túc nho, Thiết phi đạo nhân, có con gái tên Quý Hương, danh giá và học thức, sau nhiều lần thuyết phục đã chấp nhận gả con cho Bán Dạ Sinh nhưng với điều kiện phải ở rể. Lúc đầu, với những gì được giáo dục từ nhỏ, cô gái không chấp nhận những việc sai trái của chồng. Sau đó, do sự thuyết phục khéo léo, mà cô gái đã sa đà vào bản ngã của mình.

"Thiết phi đạo nhân" là người cố chấp, thích chất phác, không ưa phong lưu nên không hợp với chàng rể. Chàng rể Bán Dạ Sinh ra đi, kết bạn với "Tái côn lôn", một siêu trộm tự phụ cho rằng không gì không trộm được, và có thể lặp lại bất cứ khi nào cũng được.
Một vị tiên được đặc cử xuống trợ giúp Bán Dạ Sinh bằng cách ghép dương vật của chó với của anh ta để tăng sức mạnh cũng như độ lớn.

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:

1.         Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.         Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.         Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.         Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.         Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.         Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.         Chương 7: Thời mở lòng (những  tình cảm)
8.         Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào ngchuyệnhề báo, thập niên 80)
9.         Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả sẽ viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Popular posts