Lời dẫn
truyện:
Nhà
báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến Nguyễn Vỹ (1912-1971) còn có các bút hiệu
khác như Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Năm
1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt-Pháp lấy tên là “Le Cygne” (Bạch Nga). Báo này
ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng tác. Sau do
Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp nên
tờ báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị kết tội phá
rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia, bị tòa án thực dân tuyên phạt 6
tháng tù và 3.000 quan tiền.
Năm
1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sáng lập tờ báo Tổ Quốc tại
Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu
sau, báo này cũng bị đóng cửa. Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Đà Lạt,
chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Đại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt
tờ báo trên cũng bị đình bản.
Đến
năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ Thông, chú trọng về nghệ
thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền
Nam. Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông Lúa, tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm.
Ngày 4/2/1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh
Long An) – Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.
Bài
thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" của TTKH
được đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy, số 179, ra ngày 30/10/1937 đã trở thành một
"nghi án" với nhiều giả thuyết vế tác giả cũng như các nhân vật có
liên quan.
Tôi
đã có bài viết về "nghi án" này với tư cách là một “kẻ không liên
quan” (https://chinhhoiuc.blogspot.com/2021/09/nghi-ttkh.html)...
nhưng gần đây, trên trang Facebook của Bùi Bảo Sơn lại có đăng bài của Nguyễn Vỹ
với những chi tiết rất gần gũi với các nhân vật trong chuyện “Hai sắc hoa
Ti-gôn”. Xin trích ra đây bài viết này để... rộng đường dư luận!
NNC
Nhà văn-Nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912 – 1971)
NGUYỄN VỸ - viết về Thâm Tâm và TTKH
Năm 1936-37 xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại
ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài
người khác nữa. Ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ là những người còn quá trẻ: Huyền
Trân và Thâm Tâm mới 18, 19 tuổi, mới bắt đầu viết văn, chưa có gì đặc sắc. Lớp
văn sĩ đi trước không chú ý đến họ. Nhưng họ dễ thương, vui vẻ, hồn nhiên, an
phận ở một vị trí khiêm tốn, chẳng thân với ai, cũng chẳng làm phiền lòng ai. Họ
sống một thế giới riêng của họ, không chung đụng với những nhóm đã nổi tiếng ít
nhiều trong làng văn, làng báo lúc bấy giờ.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, lấy tên Bắc Hà ở
phố Chợ Hôm, nơi đây họ làm văn nghệ với nhau, theo lối tài tử hơn chuyên nghiệp.
Tờ báo bán không chạy lắm tuy có vài mục hài hước vui nhờ mấy bức vẽ của Tuấn
Trình và nhiều cố gắng hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất và đóng
vai chủ động trong tờ báo là Trần Huyền Trân.
Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình, vẽ nhiều
hơn viết, thỉnh thoảng đăng một vài bài thơ, vài mẩu chuyện ngắn. Đôi khi thấy
xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn
Bính, học sinh lớp Nhất, trường tiểu học Hà Đông.
Tuy không chơi thân, tôi quen biết Trần Huyền
Trân khá nhiều, vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa.
Thường đi một con đường nên chúng tôi gặp nhau và quen nhau. Đôi khi Trần Huyền
Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo “cho vui” vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ
tình thông cảm văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài và chỉ có một lần.
Trong một số báo đặc biệt mùa hè, Tuấn Trình vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ
Hoàn Kiếm và ghi ở dưới: Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn.
Tôi quen biết Tuấn Trình do Trần Huyền Trân
giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y
phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở
Sài Gòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, giống na ná Tuấn Trình về dáng điệu cũng
như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonard Sài-Gòn,
tôi quên lửng, cứ tưởng gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Nhà thơ – Họa sĩ Thâm Tâm, Tuấn Trình (1917-1950)
Một buổi chiều gần tối. Tuấn Trình đi lang
thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tưởng anh ta đến Trần Huyền
Trân, nhưng anh bảo: “Thằng Huyền Trân nó
đi đâu, không có nhà”. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy tôi
có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình.
Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say
rượu Văn-Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất
trường Tiểu học Sinh-Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô
cũng ở đường Sinh-Từ, ngay cạnh Thanh-Giám, nơi đền thờ Khổng Tử. Thanh-Giám là
một thắng cảnh Hà-Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu
bổ dưới đời nhà Lê, hình chữ nhất, chung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước.
Đền thờ ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ dựng nhiều tấm bia ghi
tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh-Giám, có cổng Tam Quan lớn, trước cổng có
tấm bia đề hai chữ Hán: “Hạ Mã”, và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây
cổ thụ và các cây kiểng. Nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp
trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về ngủ, cho nên
người Pháp gọi là “Pagode des Corbeaux” (Chùa Quạ) ngoài danh từ lịch sử
“Temple de Confucius” (Đền Khổng Tử).
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp,
nét đẹp mơm mởm của cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt.
Tuấn Trình có người cô, nhà ở phố chợ Cửa Nam, gần Sinh-Từ. Anh thường đến đây
và thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa
sĩ Tuấn Trình (tên gọi hồi đó) mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi, thi rớt Tiểu học
và đã nghỉ học từ mùa hè năm trước. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít
trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất bản.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm
quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người
nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa Antigone trắng vừa chớm nở trong
tháng đầu hè trước sân nhà cô. Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi
đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó thuộc loại hoa dây, lá giống lá nho, cho
nên ở miền Nam, nhiều người gọi là hoa nho. Nó có hai loại, loại hoa trắng và
hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè, thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống
hình trái tim nho nhỏ.
Ở Hà-Nội người ta trồng rất nhiều và bán rất
nhiều trong chợ Đồng Xuân, cũng như ở chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để
phòng khách, nó buông ra một vẻ đẹp lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt hoa
Ti-Gôn. Ở phố Sinh Từ Antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn
Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Nam
Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng hoa tàn, thì
không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh
chớm nở ngay lúc những chùm Antigone vừa hé nụ, và chết trong những ngày giữa
mùa Đông năm đó, trong lúc giàn hoa Ti-gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ
mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng Hè, sang hết mùa Thu, không đem lại chút thỏa
mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình. Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút
hiệu Thâm Tâm và cho cô Khánh biết: Hình ảnh của em, anh ghi sâu vào thâm tâm
anh. Trong bài Màu Máu Ti-Gôn, cũng có câu:
“...
Quên làm sao được thuở ban đầu
Một
cánh ti gôn dạ khắc Sâu…”
Hoa ti-gôn
Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng
Khánh, những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà, đều ký Thâm Tâm, các
tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt theo lễ giáo
nghiêm khắc của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng với tình yêu tha thiết của
Tuấn Trình – Thâm Tâm.
Đó là điều đau khổ triền miên của chàng nghệ
sĩ 19 tuổi. Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp
nơi thơ mộng ở Hà-Nội và ngoại ô: Hồ Tây, chùa Láng, Bạch Mai, Phúc Trang, Đền
Voi Phục... thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô
thường nói: “Thầy mẹ em nghiêm, gia đình
em nghiêm lắm...” Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để
trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng
không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lén băng qua đường, vào vườn
Thanh-Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cô
Khánh run cả người (theo lời Tuấn Trình kể lại) cậu cũng lính quýnh, tất cả những
câu bay bướm cậu sắp sẵn để nói với nàng, bấy giờ cậu quên mất hết. Một lúc lâu
Tuấn Trình mới nói được mấy lời tình tứ, nhưng lại trách móc, nghi ngờ, nàng
không yêu mình.
Nàng bảo: “Em không yêu anh sao dám ra đây gặp anh? Nhưng vì thầy me em nghiêm lắm,
anh ạ.” Tuấn Trình hỏi chua chát: “Giờ
phút này chỉ có thơ và mộng, chỉ có anh với em, ánh trăng đẹp của hai đứa mình
có nghiêm không nhỉ?”. Có lẽ vì bất bình câu nói mỉa mai của người yêu,
Khánh lặng yên một phút rồi đáp: “Ánh
trăng đẹp, nhưng vẫn nghiêm đấy, anh ạ”. Cuộc gặp đêm ấy, chỉ lâu không đầy
một tiếng đồng hồ. Tuấn Trình đặt một chiếc hôn âu yếm trên bàn tay của Khánh
trước lúc nàng vội vã chạy về nhà.
Lần thứ hai, hai cô cậu cũng gặp nhau trong
vườn Thanh (nhiều người sau này nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật).
Vườn Thanh-Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng Thu. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng
khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng
không nói. Chàng lặng lẽ vuốt mái tóc huyền của Khánh rồi khẽ bảo: “Ước gì anh được yêu em như thế này mãi...”
Nàng buồn bã hỏi: “Anh định bao giờ đến
xin thầy me cho chúng mình...”
Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ.
Chàng lơ đễnh bảo: “Anh chưa nghĩ đến việc
ấy, vì...” Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây. Khánh không hỏi gì hơn nữa. Chàng nắm
tay nàng đi dạo quanh hồ nước xanh rì lăn tăn gợn sóng, chàng dừng lại, khẽ kéo
Khánh vào lòng, nhưng nàng khẽ buông ra, Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng: “Em!” Khánh mải cười: “Anh bảo gì?”. “Hình ảnh của em, nụ cười của em, sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của
anh, vào thâm tâm anh”.
Trần Thị Khánh bẽn lẽn cười như để tạ ơn và
xin từ giã. Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm. Khánh muốn giấu chàng một điều gì
quan trọng chăng? Tình yêu giữa hai người vẫn nguyên vẹn, thư từ qua lại vẫn âu
yếm, nhưng Tuấn Trình bắt đầu thấy lòng buồn bã băn khoăn khi giàn hoa Ti-gôn bắt
đầu héo rụng trong nắng úa tàn thu. Thế rồi một hôm, chàng họa sĩ đa tình nhận
được một bức thư của người yêu, không, của người hết yêu, báo tin nàng sắp lấy
chồng.
Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy
học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương hoàng hậu (loại vở học trò rất thông
dụng lúc bấy giờ). Thư do một cô bạn gái của Khánh đem đến tòa báo Bắc Hà trao
tận tay Tuấn Trình. Cô bạn gái hỏi “ông
Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm. Ngoài bao thư cũng đề: Monsieur Tuấn
Trình (chữ Mr. bằng tiếng Pháp), nét chữ quen thuộc của Khánh.
Đại khái, Khánh nhắc lại tình yêu “thơ mộng”
của cô với “người nghệ sĩ tài hoa son trẻ”
(những chữ cô dùng trong thư), tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy me của cô rất
nghiêm, theo lễ giáo, nên dù người vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết
sơ thôi, nhưng cô vẫn có bổn phận “giữ
tròn chữ hiếu, không dám cãi lời thầy me đặt đâu ngồi đấy v.v...” Cô nói cô
buồn lắm vì tình yêu dang dở, “Em yêu anh
mãi mãi! Không bao giờ quên anh, nhưng ‘van’ anh đừng giận em, thương hại em,
chứ đừng trách móc em v.v...” Cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang
trái, cô khóc suốt đêm v.v...
Khánh không nói một câu nào về người vị hôn
phu, không cho biết ngày cưới, và cuối thư ký tắt: K.H. Bức thư của K.H chấm dứt
một cách đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy “thơ mộng” của họa sĩ Tuấn
Trình và cô Trần Thị Khánh.
Sau do sự dọ hỏi vài người quen ở phố
Sinh-Từ, Tuấn Trình được biết chồng cô Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng
Ngang, 39 tuổi, góa vợ và không có con. Trong câu thơ: “Bên cạnh chồng Nghiêm luống tuổi rồi” chỉ sự cách biệt tương đối
giữa tuổi 39 của người chồng với tuổi hãy còn vị thành niên của cô Khánh.
Đó chỉ là nhận xét chủ quan và mỉa mai của
Thâm Tâm, so sánh tuổi mình 20 với người đàn ông được diễm phúc làm chồng cô
Khánh, nhưng trên thực tế và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với
Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh “giàu
sang và trẻ đẹp” chứ không phải một ông già. Tuấn Trình cũng nhìn nhận rằng
một người nhà giàu 40 tuổi, đẹp trai, không thể là một ông già.
Đám cưới đã nhờ mối lái qua lại từ lâu, và
đồ sính lễ có kiềng vàng, xuyến, nhẫn, vòng, kim cương, quần áo hàng lụa quí
giá. Rước dâu bằng mười chiếc Citroen mới, cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc
áo cưới màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi trên xe hoa như nàng công chúa ngồi cạnh người
chồng mặc áo gấm xanh.
Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm
có tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai Quế Lộ, mời Trần Huyền
Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa, ngâm thơ, làm thơ, cười
đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Người đau khổ trong cuộc tình duyên dang dở
này không phải là cô Khánh. Trái lại, cô có đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất
chiều chuộng cô. Trần Huyền Trân đã gặp cô đi hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm
Blanche Neige (kem Bạch Tuyết), Bờ Hồ hai lần. Hai ông bà nhìn nhau và cười với
nhau ra vẻ âu yếm lắm. Khánh đã có thai, được chồng săn sóc nâng đỡ lên chiếc
xe nhà Citroen, lúc ra về, còn đi một vòng quanh hồ Hoàn Kiếm.
Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho
Tuấn Trình nghe và kết luận: “Con Khánh
nó cho cậu leo cây, cậu còn si nó làm gì nữa, thêm tủi nhục”. Người đau khổ
dĩ nhiên là Tuấn Trình, Thâm Tâm. Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một
nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn,
nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người
kia, Tuấn Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” ký KH, với thâm ý để
Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình
tan vỡ.
Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình dán
kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở phố Cửa Nam, mang thư đến
tòa báo. Cũng chính cô em họ đó đã chép giùm bài thơ với nét chữ con gái dịu
dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ. Cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng
mạn của Tuấn Trình, và lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối
cùng của KH, báo tin sắp lấy chồng.
Cô Khánh không biết làm thơ. Cô chưa bao giờ
làm thơ cả! Và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã
nói quả quyết với tôi như vậy, sau khi nhận được một bức thư của Khánh, bức thư
cuối cùng, tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên
cũ, có thể làm hại đến cuộc đời của cô.
Trong thư phản đối đó, Khánh xưng tôi, chứ
không xưng em như những thư trước, để chấm dứt trò chơi vô ích ấy. Thâm Tâm lấy
những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra “Bài Thơ Cuối Cùng”:
“Trách
Ai mang cánh ti gôn ấy
Mà viết
tình xưa Được Ích Gì?
Bài
Thơ đan áo nay Rao Bán
Cho
Khắp Người đời thóc mách xem
Là Giết
Đời nhau đấy, Biết Không?
Dưới
dàn hoa máu, tiếng mưa rung
Giận
anh tôi viết dư dòng lệ
Là
chút dư hương điệu cuối cùng
Từ
nay anh hãy Bán Thơ Anh
Và Để
Yên Tôi với một mình
Những
cánh hoa lòng, Hừ Đã Bỏ
Còn
đem mà Đổi Lấy Hư Vinh.”
Cô Khánh “Trách” người cũ không những đem
chuyện tình xưa ra viết chẳng “Được Ích
Gì” lại còn làm Bài Thơ đi “Rao Bán” cho người đời “Thóc Mách” mua xem. Như
thế là Anh “Giết Đời Tôi anh Có Biết
Không?” Anh đem bán thơ để kiếm chút “Hư Vinh” nhưng chuyện xưa đã bỏ rồi,
anh hãy để tôi yên!...
Thâm Tâm lấy gần hết chữ và nghĩa trong bức
thư đoạn tuyệt tàn nhẫn của Trần Thị Khánh làm Bài Thơ Cuối Cùng đó mà vẫn ký
KH, một lần cuối cùng. Rồi, để đáp lại, chàng làm một bài ký tên Thâm Tâm và
cũng là bài cuối cùng, mỉa mai, chua chát:
“...
Đây Bài Thơ Chót Kính Dâng Tặng Bạn
Và
thành chúc đời em luôn tươi sáng
Như mộng
kiều đầm ấm tuổi xuân xanh
Như
hương trinh bát ngát dịu dàng
Hoa
nhạc mới triều dâng tơ Hạnh Phúc...”
Trên phương diện văn thơ cũng như tình cảm,
ta chỉ thương hại Thâm Tâm, nhà thơ trẻ, hãy còn ngây thơ với tuổi 19, đầy thơ
mộng, cứ tưởng rằng cô Khánh vẫn thành thật yêu chàng, rằng cô bị cha mẹ ép gả
cho một “ông già”, nhưng cô vẫn giữ mối tình thiêng liêng chung thủy với người
nghệ sĩ tài hoa. Cho nên tưởng làm vui lòng người yêu, chàng lấy tên nàng để ký
dưới bài thơ thương tiếc, với những câu tình tứ như:
“Từ đấy
thu rồi thu lại thu
Lòng
tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người
ấy cho nên vẫn hững hờ
Nếu
biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời
ơi người ấy có buồn không?
Có thầm
nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa
trái tim phai, tựa máu hồng
Cho
tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ
xuống thành thơ khóc chút duyên.”
Nhưng chàng thi sĩ có ngờ đâu không những
cô Khánh không hề tỏ chút gì cảm động vì mối tình đau khổ, thủy chung của
chàng, hoặc cảm ơn những bài thơ an ủi của chàng, mà trái lại cô còn gởi một bức
thư vô cùng tàn nhẫn hằn học nào là “Anh
giết đời tôi, anh biết không?” nào là anh mang chuyện cũ ra viết “chẳng ích gì”, cô lại còn tỏ ý khinh rẻ:
“Từ nay anh cứ đem thơ anh bán rao để kiếm
chút hư vinh, nhưng anh hãy để tôi yên” v.v...
Bấy giờ Thâm Tâm mới thức tỉnh, tìm lời bào
chữa cho mình! Nào là: ... Anh biết cái
gì xưa đã chết – Anh càng buồn, càng muốn viết thành thơ – Nhưng thôi: Mộng
đang xanh, mộng hóa bơ phờ – Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Thâm Tâm tự hạ mình viết kính dâng tặng bạn
có ý xin lỗi chua chát người không phải là người yêu của mình nữa, và chàng đã
viết: “Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được
nào!” (Nàng đã không muốn yêu nữa, thì giữ làm sao được?). Và: “Có gì đâu, khi bướm muốn xa cành!”.
Thâm Tâm không những đã tỉnh ngộ, mà lại
còn uất hận vì thái độ khinh bạc của cô Khánh:
“...
Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá
Nhưng
lòng Anh đã Bình Thản lại rồi
Hết
đau buồn và cảm thấy sục sôi
Niềm
Uất Hận của một thời lạc lối –
Lấy
nghệ thuật làm trò hề múa rối –
Đem
tài hoa cung phụng sóng mắt huyền –
Để khẩn
cầu xin một nụ cười duyên…”
Thâm Tâm tự thú nhận: Lấy nghệ thuật văn
thơ để làm trò hề múa rối, (vì sự thật chẳng có gì cả) trong mấy bài thơ ký tên
KH với mục đích “Đem tài hoa cung phụng
sóng mắt huyền, để khẩn cầu xin một nụ cười duyên”. Để rồi, mai mỉa thay,
nhận những lời khinh khi ngạo mạn, và hằn học của nàng. Đó là “niềm uất hận” của Tuấn Trình trong một
thời “lạc lối” (lầm đường lạc lối). Nhưng:
“Thôi
em nhé, từ đây anh cất bước
Em
yên lòng vui hưởng cuộc đời vui...”
Chàng hứa chấm dứt trò hề múa rối về văn
thơ. Và nàng không mong gì hơn.
“Tống biệt hành”, một bài thơ nổi tiếng của Thâm Tâm
Để tôn trọng thực tế những sự kiện đã qua
trong lịch sử hay trong văn học, để đừng xuyên tạc những chuyện không có, phải
nói ngay rằng tên KH không hề gợi một dư luận nào “xôn xao” ở thời tiền chiến,
và cuộc tình duyên của Tuấn Trình (Thâm Tâm) với cô Trần Thị Khánh không hề gây
một xúc động nào về tâm lý cũng như về văn chương trong giới văn nghệ và giới
trẻ thời bấy giờ.
Tôi chắc rằng những nhà văn thơ tiền chiến ở
Hà Nội hiện còn sống tại Sài-Gòn, như các anh Vi Huyền Đắc, Lê Tràng Kiều,
Tchya, Vũ Bằng... (cả các anh Nhất Linh và Lê Văn Trương vừa tạ thế mấy năm trước)
đều phải hết sức ngạc nhiên thấy một vài người của thế hệ hậu chiến ở Sài-Gòn bỗng
dưng tôn sùng tên KH thành một thần tượng và biến mối tình rất tầm thường, có thể
nói là quá tầm thường của cô học trò cũ trường tiểu học Sinh-Từ, thành một thảm
kịch của tình yêu.
Nguyễn Nhược Pháp, nhà ở gần nhà cô Khánh,
chỉ cách năm, sáu căn, mà cũng không hề nghe nói đến cô này, và cũng không biết
một tí gì về mối tình của một họa sĩ kiêm thi sĩ Tuấn Trình hay Thâm Tâm, xảy
ra cùng dãy phố với anh.
Cũng như người đàn bà tên Mộng Cầm, hiện là
vợ một giáo chức ở Phan Rang, đã phủ nhận những chuyện người ta thêu dệt về mối
tình bạn của bà, lúc còn là nữ y tá, với thi sĩ Hàn Mặc Tử: “Tôi không thể yêu được một người bị bệnh
cùi!” Bà Mộng Cầm đã thẳng thắn nói thế, không thể trách bà được.
NGUYỄN VỸ
***