“Tháng
ba gãy súng” là hồi ký chiến tranh của Cao Xuân
Huy, nguyên Trung úy Đại đội phó Đại đội 4, Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục
Chiến, thuộc Lữ đoàn 147 TQLC, quân đội VNCH.
Cuốn sách viết về giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam tại Quảng Trị - Thừa Thiên-Huế. Không gian trong hồi ký bắt đầu ngay tại Sài Gòn trong một lần tác giả đi phép và thời gian vào tháng ba khi Ban Mê Thuột bị thất thủ.
Chiều 15 tháng Ba, tại Sài Gòn, Trung
úy Cao Xuân Huy gặp Thiếu Úy Bé, Quân Cảnh và được tin khu vực trách nhiệm của Tiểu đoàn anh là từ bờ Bắc sông An Lỗ ra đến căn
cứ Hòa Mỹ đang bị tấn công.
Tiểu Đoàn của anh, nằm ở cây số 23 về phía Bắc trên Quốc Lộ 1 tính từ Huế, đang đụng lớn. Sông An Lỗ và hai làng Cổ Bi và Hiền Sĩ, nơi đã xảy ra những trận đánh lớn và hiện vẫn đang bị đặc công và du kích quấy phá, nhưng chỉ là quấy phá chứ không có gì đáng ngại.
Tại đây có một trọng điểm chiến lược là Đồi 51 vì từ đây có thể quan sát được những cuộc chuyển quân, kiểm soát được những hoạt động tại các vị trí của địch. Nếu Tiểu Đoàn của anh đụng lớn, chắc chắn là đụng tại Đồi 51.
Sáng 16 tháng Ba, Cao Xuân Huy lên trình diện
Bộ Tư Lệnh, phòng Tư cho biết ít ra phải cả tuần nữa anh mới có tên trong danh
sách của chuyến bay ra Đà Nẵng, Phi Trường Phú Bài đã không sử dụng được vì nằm
trong tầm pháo của địch.
Chiều 17 tháng Ba, Cao Xuân Huy từ biệt gia đinh để đi Đà Nẵng. Mọi người đều muốn anh đào ngũ, ở nhà để tránh phải húc đầu vào những trận đánh vô ích. Anh nói mình không phải là một người hùng, nhưng cũng không phải là một người hèn.
Anh chỉ là một người lính. Lính của một binh chủng chuyên môn đánh trận và chỉ nhận những quân nhân tình nguyện. Anh phải xứng đáng với màu mũ đang đội, màu áo đang mặc (và hơi cá nhân một chút) anh phải xứng đáng với cặp lon đang đeo.
“Tháng
ba gãy súng” bắt đầu từ đó. Cao Xuân Huy đưa
người đọc vào những ngày tàn của cuộc chiến bằng những dòng chữ
ngay trong Lời Tựa của tác phẩm. Với một giọng văn của một người
viết không chuyên, anh đã đưa độc giả đến từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác.
Mời các bạn đọc Lời Tựa của “Tháng ba gãy súng” dưới đây. Chi tiết của cuốn sách xin đọc tại:
https://www.vinadia.org/thang-ba-gay-sung-cao-xuan-huy/
***
“Tôi
không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng
nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu
chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.
“Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
“Trong
lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam,
ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi việt cộng, còn hầu hết,
có bao nhiêu người thực sự căm thù việt cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ lứa
tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết việt cộng là cái gì đâu.
“Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét việt cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đậm cả.
“Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền.
“Cho
nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù
kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những
cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.
“Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi.
“Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu. Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng và Trung Tá Lữ Đoàn Phó bỏ Lữ Đoàn gồm bốn Tiểu Đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy.
“Tôi
giết việt cộng không gớm tay nhưng không bởi lòng căm thù vì giữa chúng tôi và
việt cộng đã có lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy mặt
nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa mất niềm
tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách
tuyệt đối.
“Làm Thuyền Trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm Đơn Vị Trưởng thì phải sống chết theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội.
“Chúng ta thua không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả Lữ Đoàn tan rã và bị bắt bởi khoảng hơn một Đại Đội du kích việt cộng vào nửa cuối tháng Ba năm 1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã trải qua.
“Tôi
ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày,
qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời
tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái “Để mất nước là tội
chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé”.
“Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Điều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.
“Điều tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại cái lỗi đã làm cho mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung “lớn lỗi lớn, bé lỗi bé” đúng theo cái kiểu “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”.
“Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy. Tôi không nhớ câu này của ai: “Cái đám quân thần của triều đinh cũ chẳng có gì phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi”.
“Đâu phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Đâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.
“Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm.
“Cái dĩ vãng thối tha và hèn nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới.
“Với tư thế mới, họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng được việt cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.
“Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã dẫn Đại Đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm.
“Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi ? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy.
“Và
tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những
điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những
diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm.
“Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành.
“Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái “những nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...”, trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết.
Cao Xuân Huy
(California 1985)
***