"Một ngày biếc,
thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước
giống dân Hời.
Đây những tháp gầy
mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát
dưới thời gian,
Những sông vắng lê
mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở
lói rỉ rên than.
Đây những cảnh ngàn
sau cây lá ngọt
Muôn ma Hời sờ soạng
dắt nhau đi;"
(“Trên
đường về” / Tập thơ “Điêu Tàn”
Chế
Lan Viên)
Tôi
vốn thích thơ Chế Lan Viên, một nhà thơ Xứ Quảng, qua tập thơ “Điêu Tàn” được
xuất bản từ năm 1937. “Điêu Tàn” ra mắt người yêu thơ khi tác giả mới 17 tuổi
và tập thơ đầu tay đã đưa Chế Lan Viên vào vị trí “Bàn thành Tứ hữu” của Bình Định
bên cạnh những tên tuổi nổi tiếng khác của Xứ Quảng: Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách
Tấn (1).
Nguồn
cảm hứng của Chế Lan Viên khi chập chững bước vào thi đàn là những tháp Chàm miền
Trung đổ nát, là những “hồn ma bóng quế” kinh dị của xứ Hời ngày nào như vẫn
còn vất vưởng trong cảnh điêu tàn của những tháp đền cổ nằm rải rác khắp miền
Trung.
Chế
Lan Viên của thời tiền chiến được người yêu thơ biết đến qua cái mà ông gọi là “Trường
thơ loạn” với tâm trạng hoài cổ, nuối tiếc một vương quốc Chiêm Thành hùng mạnh,
một thời vàng son của Chế Bồng Nga đã từng 4 lần tấn công Đại Việt.
Tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Tháp Bằng An, Điện Bàn, Quảng Nam
Tháp Po Klaung Garai, Phan Rang, Ninh Thuận
Di
tích tháp cổ của Chiêm Thành nằm rải rác dọc bờ biển miền Trung, từ Quảng Nam
trải dài xuống tới Khánh Hòa. Những ngọn tháp đều có chung một đặc điểm: nằm u
tịch và cô đơn trên những cánh rừng hoang, cách biệt hẳn với sự náo nhiệt của
những thành phố hay thị trấn ngày nay.
Không
như những tháp chàm khác, duy nhất tại Việt Nam và cũng là của vùng Đông Nam Á,
có một khu quần thể kiến trúc tháp và đền Chàm cổ nằm cách Đà Nẵng khoảng 70
km. Nơi đây là một tổ hợp bao gồm hơn 70 đền đài, tháp cổ chiếm một thung lũng
có đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi hoang vu. Khu di tích này được
gọi là “Thánh địa Mỹ Sơn”.
Đây
đã từng là nơi hành lễ cúng tế của vương triều Chiêm Quốc và cũng là lăng mộ của
các vị vua xứ Hời hay hoàng thân, quốc thích. Các công trình kiến trúc được tạo
dựng suốt 9 thế kỷ, từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII. Thánh địa Mỹ Sơn được coi
là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á
và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Bản đồ Thánh địa Mỹ
Sơn
Chỉ
có 3 người chúng tôi đến Mỹ Sơn – tôi, con rể và người tài xế - nhưng lại chỉ
có 2 người chịu khó lội bộ hết các khu vực chính mang ký hiệu từ A đến H còn
tài xế thì nói là anh đã đến Mỹ Sơn nhiều lần nên thoái thác đi thêm lần nữa!
Phải
thành thật mà nói, đối với người lớn tuổi như tôi, công sức bỏ ra để đi khắp
Thánh địa là một… cố gắng “vượt bực” giữa trưa nắng gắt miền Trung lúc nào cũng
hầm hập. Dù sao đi nữa, đó là một kỷ niệm đáng nhớ khi được lang thang giữa những
tòa tháp cổ, dấu tích của một thời vàng son của vương quốc Đồ Bàn đã tàn lụi. Người
Chàm ngày nay chỉ còn độ 150.000 người sống rải rác tại các tỉnh miền Trung,
ngoài ra còn một số ít định cư tại nước ngoài.
Ngay
tại cổng vào có một nhà hát bỏ túi. Khi chúng tôi đến thì chương trình ca nhạc
của người Chàm đã đi vào tiết mục cuối cùng, chỉ kịp bấm một kiểu ảnh là kết
thúc. Hình như đó là một vũ điệu Apsara…
Chương trình ca nhạc giúp vui
Việc
bảo tồn Mỹ Sơn được khởi đầu từ người Pháp vào năm 1937. Trong giai đoạn này, đền
A1 và các đền nhỏ xung quanh đã được trùng tu. Từ năm 1939 đến 1943, cụm tháp
B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Tuy nhiên, nhiều tháp và
lăng mộ đã bị phá hủy vì bom đạn trong Chiến tranh Việt Nam.
Phần
lớn các đền đài trong các nhóm khu vực trung tâm như B, C và D còn tồn tại, và
mặc dù rất nhiều pho tượng, bệ thờ và linga đã bị lấy về Pháp hay gần đây được
chuyển tới các viện bảo tàng như Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng.
Mỹ
Sơn vẫn có một viện bảo tàng tạm thời đã được thiết lập trong 2 ngôi đền với sự
trợ giúp của người Đức và Ba Lan để trưng bày các mô hình các lăng mộ và hiện vật
còn lại.
Một phần cụm tháp B, C và D tại Mỹ Sơn
Năm
2005 tỉnh Quảng Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà trưng bày, giới thiệu di tích
Mỹ Sơn với diện tích 5.400 m² với nhà chính rộng 1.000 m² ngay lối dẫn vào di
tích (khoảng 1 km) do Nhật Bản tài trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn
còn nhiều lo ngại về tình trạng của các công trình kiến trúc, một số trong đó
có khả năng sập đổ.
Trong
giai đoạn từ năm 2002 đến 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam đã chi khoảng
7 tỷ VNĐ (USD 440.000) cho dự án phục chế khẩn cấp Thánh địa Mỹ Sơn; một dự án
của UNESCO được hỗ trợ bởi chính phủ Ý với số tiền là USD 800.000 và các cố gắng
phục chế có nguồn vốn từ Nhật Bản cũng đang góp phần ngăn chặn tình trạng xuống
cấp của chúng. Các công việc phục chế tại đây cũng được World Monuments Fund
(WMF) góp vốn.
Di tích của một ngôi đền cổ
Bắt
đầu từ năm 2004, chương trình hợp tác 3 bên giữa Chính phủ Việt Nam, Văn phòng
UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương và chính phủ Ý đã chọn Quảng Nam để thực
hiện dự án Bảo vệ Khu di sản Thế giới Mỹ Sơn.
Chương
trình bao gồm việc áp dụng các tiêu chuẩn bảo tồn quốc tế tại các đền thờ thuộc
nhóm G tại Mỹ Sơn. Đến năm 2011, nhóm tháp G tiếp tục hoàn thiện trùng tu, củng
cố hệ thống thông tin diễn giải cho du khách. Nếu tính cả giai đoạn 1997 - 2003
tập trung khảo sát, thăm dò, phân tích… thì câu chuyện của tháp G “dài” ngót…
14 năm.
Đền đài trước sự tàn phá của thời gian
Các
nhà khảo cổ và kiến trúc trong cũng như ngoài nước vẫn chưa có một kết luận cuối
cùng về kỹ thuật cũng như vật liệu người Chàm xưa áp dụng khi xây dựng tháp và
đền thờ. Dự án hợp tác quốc tế chỉ tìm ra được chất liệu tương đồng với loại mà
người Chàm cổ sử dụng như chất vữa liên kết và sản xuất gạch phục chế. Loại nhựa
cây cùng với dầu rái có thể tìm được tại rừng Mỹ Sơn, còn gạch Chàm được “đặt
hàng” tại một lò gạch ở huyện Duy Xuyên theo yêu cầu kỹ thuật của các chuyên
gia.
Gạch
Chàm chính là trở ngại lớn nhất trong việc trùng tu Mỹ Sơn. Sau thời gian
nghiên cứu, hiện đã có được viên gạch cổ với độ tương đồng khoảng 90% so với
viên gạch cổ nhưng cũng đã là thành công lớn. Giá thành một viên gạch khoảng
70.000 đồng nhưng nếu tính tất cả chi phí và công sức nghiên cứu suốt thời gian
qua, cộng với thủ tục gửi mẫu vật đi nước ngoài mỗi năm 3 lần, thì mỗi viên gạch
lên đến khoảng 1 triệu đồng/viên.
Những viên gạch tạo nên nền tháp cổ
Ngoài
những tháp và đền cổ, Mỹ Sơn còn có một số tượng đá các linh vật thờ phụng,
tiêu biểu nhất là tượng Linga và Yoni theo Ấn Độ giáo Shiva. Linga và Yoni là
những biểu tượng thờ phụng, tượng trưng cho bộ phận sinh dục của người nam và
người nữ đã được sử dụng từ thời kỳ đầu của nền văn minh thung lũng sông Ấn.
Tại
Mỹ Sơn, tôi đã phát hiện một tượng Linga bằng đá, nằm khiêm tốn trong một góc
khuất mà du khách rất dễ bỏ qua. Tượng không có nhiều chi tiết cầu kỳ nhưng chỉ
cần một vài phút chiêm ngưỡng người ta liên tưởng ngay khối trụ là bộ phận sinh
dục của người nam và được đặt trên một khối 6 cạnh.
Linga
Theo
Ấn Độ giáo, Linga và Yoni là sự kết hợp của âm-dương. Cũng từ sinh thực khí Linga
và Yoni tạo ra sự sinh sôi, phát triển của con người và sự tái sinh của vũ trụ.
Đa số mỗi bệ Yoni, trên đó được thể hiện một Linga, nhưng trong điêu khắc Chàm
lại có trường hợp ở bệ được thể hiện trên đó nhiều Linga và đặc biệt hơn nữa là
trên Yoni lại được thay thế Linga bằng hình người (hay thần), như bộ Yoni ở
tháp chính Po Naga Nha Trang, có thể đây là hình tượng nữ thần Po Naga.
Yoni
Gần
một ngày tại Mỹ Sơn giữa trời nắng trang trang quả là một thử thách đối với những
người lớn tuổi như tôi. Thế nhưng, tất cả đã vượt qua để được một lần chứng kiến
di tích của một nền văn minh Chiêm Quốc. Dấu tích đó ngày càng trở nên “điêu
tàn” như nhà thơ Chế Lan Viên đã dùng từ ngữ này để làm tựa đề cho tập thơ.
Một ông già… ham vui!
Tập
thơ “Điêu Tàn” xuất bản cách đây gần một thế kỷ. Mỹ Sơn được xây dựng từ thế kỷ
thứ 4. Hiện nay chúng ta đang sống ở thế kỷ thứ 21. Nếu làm phép tính với đơn vị
thế kỷ người ta mới thấy thời gian quả là vô biên!
Tạm biệt Thánh địa Mỹ Sơn
***
Chú
thích:
(1)
Đọc “Người Chàm trong mắt tôi” tại:
***
(Trích
Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời
xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà
Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và
Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng
viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng
Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện
tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề
báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những
chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác
giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên
2000 cho đến ngày xuống lỗ)!