Tuy
“đương thời” nhưng Tiểu Tử năm nay đã gần 90, cái tuổi “gần đất, xa trời” nhưng vẫn còn sáng tác (từ nước ngoài) những
truyện ngắn “rặc chất Nam bộ”. Ông
sinh năm 1930 tại Gò Dầu, Tây Ninh, tên thật Võ Hoài Nam, con của Giáo sư Võ
Thành Cứ, dạy tại trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.
Ông
tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille (Pháp) năm 1955, về nước và cũng dạy tại trường
Pétrus Ký, niên khóa 1955-1956. Cuối năm 1956, ông vào làm việc tại hãng xăng
Shell Việt Nam cho đến ngày Sài Gòn đổi chủ.
Năm
1979, ông vượt biên và định cư tại Pháp. Sau đó, ông làm cho công ty Đường Mía
tại Côte d’Ivoire, Phi Châu, từ 1979 đến 1982. Ông trở lại làm cho Shell Côte
d’Ivoire và về hưu năm 1991 tại Paris.
Trước
1975, ông phụ trách mục biếm văn “Trò Đời” trên nhựt báo Tiến, với bút hiệu Tiểu
Tử. Bút hiệu nầy ông vẫn dùng cho những bài tạp văn và truyện ngắn của ông tại
hải ngoại, sau 1975. Ông đã xuất bản tại nước ngoài tập truyện ngắn “Những mảnh vụn” (2004), “Bài ca vọng cổ” (2006), “Chuyện thuở giao thời” (2015).
Trong
bài “Giới Thiệu Truyện ngắn “Nội” Của Tiểu
Tử Võ Hoài Nam”, Lê Tấn Tài viết:
“Truyện của Tiểu Tử
càng đọc càng thích thú, say mê, dìu độc giả về những kỷ niệm thân yêu của một
thời trên quê hương Tây Ninh yêu dấu. Ông Vương Văn Ký, người cùng sanh trưởng
tại quận Gò Dầu với Tiểu Tử, đã viết tặng ông câu đối, như sau:
“Cố quốc đậm đà tình
Tiểu Tử,
Trời tây thắm thía điệu
Hoài Nam”
Tiều Tử - Võ Hoài Nam
Đó
là cách viết, theo tôi nghĩ, chỉ có những tác giả người miền Nam chân chất mới
viết được. Người đọc đôi khi có cảm giác tác giả không mấy bận tâm về kỹ thuật
viết lách. Rõ ràng là ông viết với tấm lòng bình dị theo kiểu… “nghĩ sao viết vậy”.
Trong
tập truyện ngắn “Bài ca vọng cổ” có một
truyện cùng tên kể lại cuộc gặp gỡ của hai người Việt tại Côte d’Ivoire tận
Châu Phi. Đó là cuộc gặp “kỳ lạ” giữa tác giả với một thanh niên da đen:
“Trong lúc tôi thiu
thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở
dài, nghĩ: “Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy”. Rồi
lại nhắm mắt lim dim… Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước
khi “xuống hò”: “Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng… đang vươn lên
ngọn khói… á… lam… à… chiều…”
Hóa
ra đó là một thanh niên da đen đang ca vọng cổ. Tác giả chào “Bonjour” và hỏi,
vẫn bằng tiếng Pháp: “Anh hát cái gì vậy?”.
“Một bài ca của Việt Nam”. Anh ta tự
giới thiệu mình là Jean, người ta thường gọi là “Jean le vietnamien” ở Borotou. Jean là “con lai”, có mẹ người gốc
Nha Trang… Tiểu Tử cũng tự giới thiệu mình là người Việt Nam.
“Bỗng hắn trợn mắt có
vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền
Nam, chẳng có một chút lơ lớ:
– Trời ơi!… Bác là
người Việt Nam hả?
Rồi hắn vỗ lên ngực:
– Con cũng là người
Việt Nam nè!
“Thiếu chút nữa là
tôi bật cười. Nhưng tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng
của hắn. Rồi tôi bỗng nghe môt xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại
“trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” này mà gặp được một người biết
nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen,
sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt…
“Tôi bước tới bắt tay
hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:
– Trời ơi!… Con mừng
quá! Mừng quá! Trời ơi!… Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người
Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt… con mừng “hết lớn” bác à!”
(hết
trích)
Cười
ra nước mắt cũng là một trong những yếu tố hài hước trong truyện của Tiểu Tử.
Trong “Thầy Năm Chén”, ông thầy thuốc,
suốt đời làm việc nghĩa, bị cách mạng hành hạ nên chuẩn bị cho con vượt biên.
Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, “một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút”. Ông nói: “Cho con cái ni (ông già người gốc Huế). Con
giữ trong người để hộ thân”.
Kiệt
vượt biên đến Canada an toàn. Một hôm dở cái gói của cha cho trong lúc ra đi và
thấy rong đó có gói … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén đã trở thành vô sản nên
chỉ còn biết cạy ba cái răng vàng cho con “làm
của hộ thân” đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả bỗng hiểu tại sao từ
ngày con đi, ông Năm Chén… chỉ húp cháo.
***
Ông
Tư, trong “Im lặng”, là người thuộc loại “tư sản mại bản” ở Saìgòn nhưng ông đã
“bí mật đóng góp tài chánh cho Giải phóng”.
Khi “giải phóng miền Nam”, ông không
những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị lấy sạch.
“Bỗng nhiên ông Tư nhận
thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ của ông
đang chờ đợi ông ở nhà”. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lừa gạt,
suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng.
Rốt
cuộc hai vợ chồng tìm đường sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du
học, đã thành đạt, có nhà cửa sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày.
Ông Tư nói ở lại luôn! Ông con nói, giọng đặc “Việt kiều yêu nước”:
“Ủa, sao lại ở luôn.
Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết; vậy mà
ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý”.
Ông
Tư trở thành một người câm, không nói gì được với ai nữa. Cho đến một hôm ông lầm
lũi lội xuống biển để cho nước cuốn đi. Ông hóa ra là một “thằng khôn” đã vượt
biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, rốt cuộc
chỉ có nước biển mới rửa sạch.
Nhà văn Tiểu Tử giới thiệu tác phẩm mới: "Chuyện thuở
giao thời" năm 2015
Trong
số các truyện ngắn của Tiểu Tử, “Chiếc
khăn mùi xoa” có thể coi là điển hình cho những tình cảm đầy nước mắt tình
nghĩa của những người sống lưu vong nơi đất khách, quê người. Cũng có thể coi
đây như một vở cải lương lãng mạn nhưng lại chân thực của người miền Nam.
Nhân
vật chính là “con Huê”. Thoạt đầu, người đọc cứ tưởng đây là một con bé nào đó ở
vùng quê Lục tỉnh. Thực ra, đây là một người đàn bà đã luống tuổi. Nhân vật nam
là một người tỵ nạn ở Pháp, ông ta kể lại câu chuyện với một người bạn đồng
hương:
“Con Huê tiễn tao ra
cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả
bài thuộc lòng thuở nhỏ: Anh qua bên Tây, gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh.
Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần.
Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao: Anh biết
không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận. Người con gái ở quê mình nó
thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ
coi đó là tự nhiên như nước lớn, nước ròng”.
“Con
Huê” từ ngày còn đi học cho đến nay, trên đầu đã hai thứ tóc, chỉ biết có một
người tên Cương. Sau năm 1975, Cương vượt biên rồi định cư ở Pháp. Con gái ông
Cương, sống ở Bruxelles, kể lại cho Tiểu Tử hay bố mẹ cô đều đã qua đời. Trước
khi chết, Cương dặn con gái:
“Con ráng tìm cách về
Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết”.
“Cái
này” là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời
trẻ. Người con gái thương bố và cũng thương cô Hai Huê nên về Việt Nam, một đất
nước hoàn toàn xa lạ với cô. Cô tìm về Nhơn Hoà tìm người đàn bà tên Huê để
trao lại kỷ vật của bố. Cô Hai Huê ngất xỉu khi nghe tin người bạn xưa nay đã
chết bên trời Tây.
Hai
người đàn bà - một già, một trẻ - ôm nhau khóc. Truyện khiến người đọc ngỡ
ngàng khi cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như hai mẹ con. Truyện
khiến người đọc dù có tâm hồn sỏi đá cũng cảm thấy lòng mình xao xuyến. Người
ta tự hỏi, cuộc đời của những người Việt sao mà éo le đến vậy?
Người
ta thường nói văn chương là hư cấu. Nhưng đọc truyện của Tiểu Tử, người ta thấy
cái chân thực và có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của sự tưởng tượng.
Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại.
Vả
lại, ở Việt Nam, thực tế thường vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch
mỗi người Việt Nam đã và đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng
tượng tới đâu, có thể bịa ra.
Nhà văn Tiểu Tử (chụp năm 2013)
Tiểu
Tử hiện sống tại Pháp nhưng văn của ông “không Tây chút nào”! Trái lại, rất Việt Nam, hay nói chính xác hơn là “Nam Việt”.
Lối viết của ông tựa như người ta kể chuyện bên ly la-de, bên tô hủ tíu… với những
chữ “nghen”, “héng”, “nghe”…
Trong
truyện ngắn “Ngụy”, bà Năm cháo lòng
nói với bà H có chồng đi “học tập cải tạo” một câu thật cảm động và cũng rất
nhân bản: “Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng
ngại. Mình với nhau mà…”. Tiểu Tử viết:
“Lạ quá! Chỉ có mấy
tiếng “mình với nhau” mà sao nghe ấm cúng vô cùng. Nhứt là trong hoàn cảnh này,
trong giai đoạn này. “Mình với nhau” là sự nhận diện của những người cùng đứng
về một phía. “Mình với nhau” nói lên sự cảm thông của những người cùng cảnh ngộ,
cần nương tựa vào nhau, nâng đỡ nhau để sinh tồn. “Mình với nhau” là tình người
không dị biệt giai cấp. Cho nên, khi mở rộng vòng tay, bà Năm cháo lòng chỉ cần
nói có mấy tiếng đó thôi là quá đầy, quá đủ...”
Kể
cũng lạ. Dưới ngòi bút của một tác giả người miền Bắc, miền Trung, gọi người
đàn bà là “con” Huê, “con” Nhàn nghe có vẻ hỗn… nhưng ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự
thân mật. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi “con nhỏ này, con nhỏ kia”, người nghe chỉ cảm thấy sự thân tình.
Ngay
cả tên những nhân vật cũng “đặc sệt” miền Nam. Không hề có Lan, Cúc, Hồ Điệp,
Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, cũng không có Nga My, Diễm My,
Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt,
thầy Năm Chén, thằng Lượm, bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng.
Hồ
Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên, Tiểu Tử (và cả cây bút Nguyễn
Ngọc Tư ở trong nước) đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương
đã làm giàu cho văn hoá dân tộc.
Thật
đáng mừng là ngày nay chúng ta vẫn còn những cây bút như Tiểu Tử. Dù đang sống
trong môi tường sinh hoạt của Phương Tây nhưng ông vẫn còn giữ được “bản sắc Việt”
nói chung và ngôn ngữ miền Nam nói riêng.
Nói
cho cùng, mọi bắt chước theo lối diễn tả “không
phải là của chính mình” sẽ là một sai lầm, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của
ta nghèo đi. Thậm chí, đến một mức độ nào đó, nó còn hủy hoại những gì ta vốn
có.
Tiểu Tử còn là một họa sĩ nghiệp dư
***
* Các bạn có thể đọc
trên Blog “Nam kỳ Lục tỉnh” tại (https://sites.google.com/site/nhavantieutu/tuyen-tap/chi-tu-u) một số truyện ngắn và phiếm luận của nhà văn Tiểu Tử.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét