Khi
nói đến cầu, người ta liên tưởng ngay đến phương tiện nhằm vượt qua chướng ngại
vật, giúp cho việc đi lại được thông suốt. Tại một số nơi trên thế giới còn có
những chiếc cầu tương đối nhỏ, được thiết kế với mái che nhằm giúp người đi bộ
tránh được mưa nắng.
Việt
Nam có một từ ngữ để chỉ những chiếc cầu này: Cầu Ngói. Đơn giản chỉ vì phía
trên cầu được lợp mái bằng ngói với những kiểu dáng kiến trúc mang nét nghệ thuật
thật phong phú. Cũng vì thế, cầu ngói là những nơi hấp dẫn du khách, trong cũng
như ngoài nước.
Đi
dọc từ Miền Trung ra Bắc, chúng ta gặp một số cầu ngói nổi tiếng, mỗi chiếc cầu
mang một công trình kiến trúc đặc thù. Chiếc cầu ngói ở phố cổ Hội An là một
trong những chiếc cầu nổi tiếng nhất nước.
Đó
là Chùa Cầu, được chọn là một trong những biểu tượng của thành phố Hội An và
cũng là Di sản Thế giới. Chùa Cầu còn xuất hiện trên tờ giấy bạc 20.000 đồng vẫn
được lưu hành nhưng lại rất nhiều người để ý đến.
Hình ảnh Chùa Cầu xuất hiện trên tờ giấy bạc 20.000 đồng
Vào
thế kỷ thứ 17, người Nhật đã đến Hội An buôn bán và họ xây dựng Chùa Cầu tại
Faifo, tên gọi ngày xưa của Hoài Phố, tức Hội An ngày nay. Cũng vì thế, Chùa Cầu
còn được gọi là Chùa Nhật Bản. Các thương gia Nhật tin rằng chiếc cầu là một
thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật “namazu”, khiến nó không quẫy đuôi, gây
ra những trận động đất.
Năm
1653, phần chùa trên cầu được thiết kế từ giữa cầu nên mới có tên là Chùa Cầu.
Đến năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là “Lai Viễn Kiều” (cầu đón khách phương
xa). Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia ở đầu cầu thì chiếc cầu đã
được dựng lại vào năm 1817.
Chùa Cầu, Hội An
Chùa
Cầu là một kiến trúc bằng gỗ được xây dựng trên những trụ cầu bằng gạch, dài
khoảng 18m, có mái che, vắt ngang một lạch nước chảy ra sông Thu Bồn. Mái chùa
lợp ngói âm dương, trên cửa chính của cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ
Hán “Lai Viễn Kiều”.
Tuy
gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn
son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông Thu Bồn. Hai đầu cầu
có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ. Có
người giải thích vì cây cầu xây từ năm Thân và hoàn tất vào năm Tuất (?).
Người
dân Hội An rất hãnh diện về kiến trúc của Chùa Cầu. Dù khởi thủy là một tác phẩm
của người Nhật nhưng công trình này đã gắn bó với địa phương để trở thành một
di sản kiến trúc của quốc gia và cả thế gới với những câu thơ:
“Ai đi phố Hội Chùa Cầu
Để thương để nhớ để sầu
cho ai
Để sầu cho khách vãng
lai
Để thương để nhớ cho
ai chịu sầu.”
Chùa Cầu vào ban đêm
Từ
Quảng Nam ra Huế, sau khi vượt đèo Hải Vân, du khách sẽ gặp một chiếc cầu ngói giữa
khung cảnh thơ mộng của vùng quê đất Thần Kinh. Chiếc cầu này thường được nhắc
đến trong kho tàng ca dao của địa phương:
“Ai về cầu ngói Thanh
Toàn
Cho em về với một
đoàn cho vui.”
Cầu ngói Thanh Toàn thời Pháp thuộc
Tôi
đã từng đến Chùa Cầu và cả cầu ngói Thanh Toàn. Qua cái nhìn của một du khách,
cầu ngói Thanh Toàn đẹp hơn Chùa Cầu rất nhiều mặc dù sự nổi tiếng hơn vẫn thuộc
về Chùa Cầu. Khung cảnh là yếu tố quan trọng. Cầu ngói Thanh Toàn nằm giữa một
thiên nhiên mộc mạc trong khi Chùa Cầu lại ở trung tâm của phố thị đông người
qua lại.
Độ
dài của hai chiếc cầu xấp xỉ ngang nhau nhưng khi bước lên cầu ngói Thanh Toàn
khách sẽ có một cảm giác gần gũi với thiên nhiên trong khi Chùa Cầu lại mang sắc
thái đường phố, dù đó là phố cổ. Người đến Thanh Toàn sẽ thấy một sự khác biệt
giữa thế giới phố thị và làng quê mộc mạc.
Cầu
ngói Thanh Toàn, thuộc địa phận huyện Hương Thủy, cách trung tâm thành phố Huế
khoảng 8km. Thân cầu được làm bằng gỗ, phía trên lợp mái ngói hình ống, tráng
men. Cầu được chia làm 7 gian với gian giữa là nơi thờ bà Trần Thị Đạo, người
góp tiền xây cầu cho dân làng tiện đường qua lại vào thế kỷ 18.
Cầu ngói Thanh Toàn
Cầu
ngói Thanh Toàn được xây dựng theo lối “thượng
gia hạ kiều” với ý tưởng trên là mái nhà và dưới là cầu. Cầu bắc ngang dòng
sông Như Ý với hai bên thân là lan can, có bục gỗ để ngồi nghỉ ngơi và trên đầu
lợp mái ngói lưu ly, che mưa, che nắng.
Sau
hơn hai thế kỷ dãi dầu với năm tháng, đương đầu với gió bão lụt lội và chiến
tranh tàn khốc.... cầu ngói đã được trùng tu, sửa chữa vào các năm 1847, 1906,
1956 và 1971. Qua các lần tu sửa, kích thước thu hẹp đi, chiều dài còn 16,85m
và rộng 4,63m.
Bên
cạnh cầu, từ năm 2015 có một Nhà trưng bày nông cụ Thanh Toàn. Nơi đây triển
lãm các loại nông, ngư cụ truyền thống và còn “kể” những câu chuyện sinh hoạt
thôn quê, với sự trợ giúp kinh phí và phối hợp của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) và Ủy ban Văn hóa Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO).
Gian thờ và những bục gỗ trên cầu ngói Thanh Toàn
Ra
đến Bắc, chúng ta sẽ được đi trên cầu ngói Phát Diệm, xây dựng năm 1902. Thị trấn
Phát Diệm thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Thái Bình, nơi có một quần thể nhà thờ đá nổi
tiếng trên một vùng đất sình lầy ven biển. Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là người
đã có công lớn trong việc khai sinh, mở rộng và ghi danh vùng đất này trên bản
đồ Việt Nam.
Cầu
ngói Phát Diệm có dáng cầu cong cong, bên trên lợp ngói… không chỉ để đi lại mà
còn là điểm hẹn văn hóa của người dân địa phương qua nhiều thế hệ. Hơn 100 năm
qua, cây cầu ngói Phát Diệm luôn là niềm tự hào của người dân thị trấn và là một
công trình văn hóa rất ý nghĩa.
Cầu ngói Phát Diệm
Sông
Ân chảy qua thị trấn Phát Diệm là một công trình thủy lợi được Nguyễn Công Trứ
cho xây dựng để lấy nước ngọt từ đầu nguồn về rửa mặn giúp người dân sản xuất
nông nghiệp. Khi có con sông này, việc đi lại hướng về phía biển gặp nhiều khó
khăn nên ông đã xây dựng một cây cầu nối đôi bờ sông Ân.
Ban
đầu cầu được làm bằng thân những cây gỗ to, những tấm gỗ lớn để cầu rộng rãi
cho người dân đi lại. Do thời gian bị hư hại, năm 1902, cầu được thay thế bằng
một cây cầu có mái lợp ngói.
Trải
qua một thế kỷ, cầu ngói Phát Diệm ngày nay vẫn còn giữ được nguyên dáng vẻ của
chiếc cầu xưa với hai bên là hai hàng cột gỗ lim và lan can rất chắc chắn. Cầu
có 3 nhịp, mỗi nhịp 4 gian với chiều dài 36m, chiều rộng 3m. Phía hai bên đầu cầu
có các bậc tam cấp và chỉ người đi bộ mới qua được cầu.
Cầu ngói Phát Diệm soi bóng bên dòng sông Ân
Ngoài
cây cầu ngói Phát Diệm, huyện Kim Sơn còn có 2 cây cầu ngói khác và trở thành địa
phương có nhiều cầu ngói nhất nước. Cầu ngói Lưu Quang (xã Quang Thiện) được
khánh thành, đưa vào sử dụng tháng 8/2015. Đây là cây cầu ngói thứ 2 bắc qua sông
Ân. Cầu được làm bằng bê tông cốt thép, bên trên có phần mái che lợp ngói, thiết
kế gần giống với cầu ngói Phát Diệm.
Cầu ngói Lưu Quang (xã Quang Thiện)
Cầu
Hòa Bình (xã Hùng Tiến) là cây cầu ngói thứ 3 bắc qua sông Ân, huyện Kim Sơn. Cầu
được hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2016. Cầu có 3 nhịp, 9 gian, chiều dài
hơn 20m, rộng 8m. Cầu có thiết kế giống như một ngôi chùa với mái cong vút.
Cầu Hòa Bình (xã Hùng Tiến)
Tôi
đã đến khu quần thể Nhà thờ Chính tòa được xây dựng bằng đá và gỗ từ năm 1875 ở
Phát Diệm trong một chuyến “cross-country” với đoàn sinh viên Mỹ nhưng quả thật
chưa được bước chân lên cầu ngói Phát Diệm. Tuy nhiên, những gì được đọc và thấy
qua hình ảnh, cầu ngói Phát Diệm rất xứng đáng được xếp vào nhóm những cây cầu
ngói nổi tiếng của Việt Nam.
Riêng
với hai cây cầu mới được địa phương “bê-tông-hóa” thành “cầu ngói” là những kiến
trúc, phải nói là “thô kệch”, ‘tân không
ra tân, cổ không ra cổ”. Những kiểu kiến trúc này ngày nay không hiếm, nhất
là tại miền Bắc.
Người
ta nghĩ ngay đến những dinh thự, biệt phủ của các trọc phú, quan chức lắm tiền,
nhiều của. Bắt chiếc một chút Gothic, lấy một chút nét La Mã, cóp một chút ảnh
hưởng của Phục Hưng… để có một tác phẩm “lai căng” hay nói theo ngôn ngữ bình
dân là “tả pín lù”!
Cầu ngói Phát Diệm
Tại
chùa Lương (Hải Hậu, Nam Định) có cầu cây cầu ngói trên sông Trung Giang, được
xây dựng vào thời Lê, cuối thế kỷ 15. Chùa Lương, còn được gọi là “Chùa Trăm
Gian” hay Phúc Lâm Tự được xây dựng vào đời vua Lê Hồng Thuận (1509-1515).
Theo
lịch sử, cầu ngói Chợ Lương có niên đại cùng với chùa Lương. Cầu có 9 gian bằng
gỗ lim bắc trên hai hàng cột đá được gia công tỷ mỉ, kỹ thuật chạm trổ khéo
léo. Nhìn từ xa, chiếc cầu như một con rồng đang vươn mình lên trời cao. Người
thợ thủ công mỹ nghệ làng Hải Minh được ca tụng:
“Ai qua Cầu Ngói Chợ
Lương,
Ghé thăm Mỹ nghệ Hải
Minh làng nghề”
Mỗi
đầu cầu đều có 4 con nghê chầu, với dáng vẻ vừa thân thuộc vừa uy nghiêm, ý
nghĩa ấy được dân gian thể hiện trong câu: “Bốn
con nghê đực chầu về tổ tông”. Hình ảnh cầu ngói Chợ Lương đã được đưa lên
trên tem bưu chính để cả nước chiêm ngưỡng.
Tem cầu ngói chùa Lương (Hải Hậu, Nam Định)
Hà
Nội có Chùa Thầy (thuộc Hà Tây cũ) với
hai cây cầu ngói Nhật Tiên và Nguyệt Tiên. Tương truyền hai cây cầu này do Trạng
Bùng Phùng Khắc Khoan (1528- 1613) xây dựng vào khoảng những năm đầu thế kỷ 17.
Đến nay cầu đã qua nhiều lần trùng tu và kiến trúc hiện tại cũng vẫn còn mang những
nét đặc trưng của kiểu cầu ngói vùng đồng bằng Bắc bộ.
Cầu Nhật Tiên nằm về bên trái chùa để đi ra đảo có đền thờ
Tam phủ
Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải chùa nối với bờ hồ có đường
lên núi
***
Khác
biệt với miền Trung và miền Bắc về lịch sử mở mang bờ cõi, miền Nam được coi
như “vùng đất mới” nên thiếu hẳn những chiếc cầu ngói, nét đặc trưng về văn hóa
“bán cổ điển” của Việt Nam. Đó cũng là sự thiệt thòi của những vùng đất “sinh
sau, đẻ muộn”.
Thay
vào đó, Miền Nam có những kiến trúc mang đậm nét Phương Tây, đặc biệt là ành hưởng
của văn hóa Pháp trong việc xây dựng những tòa dinh thự. Sài Gòn là một thí dụ
điển hình về phong cách kiến trúc theo trường phái Gothic, Roman, Baroque do
người Pháp thết kế và xây dựng.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét