Cuộc sống đem lại cho chúng ta quá nhiều căng thẳng, cả về thể xác lẫn tinh thần. Thế cho nên, tôi mới tìm ra được một “giải pháp”, đó là việc tìm đọc những vần thơ vui như một cách để quên đi những trói buộc nhọc nhằn của cuộc đời khi tuồi già kéo đến.
“Bà Chúa thơ nôm” Hồ Xuân Hương có cả một kho tàng “thơ vui” nhưng nhiều người lại bảo rằng đó là “thơ tục”. Dù “Thanh” hay “Tục”, những đấng “trượng phu nam tử” vẫn phải ngả mũ thán phục một bậc nữ lưu “xưa nay hiếm”, một người dám viết những chuyện phòng the theo cách của bà.
Theo tài liệu của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Lê Xuân Giáo, nữ sĩ có tới 3 đời chồng dù nhan sắc có phần thua kém chị em! Người chồng đầu tiên là một ông cai tổng có tục danh là Cóc, tiếp đến là quan tri phủ Vĩnh Tường và cuối cùng là quan tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển.
Thơ Hồ Xuân Hương bài nào cũng đầy ắp những hình tượng tính dục nhưng lại được chuyển tải bằng một thứ ngôn ngữ rất “đời thường”, chẳng hạn như “nòng nọc đứt đuôi” hoặc “cửa son đỏ loét tùm hum nóc”:
“Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc
cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ
loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì
lún phún rêu…”
(Đèo
Ba Dội)
Hãy
tưởng tượng một buổi trưa hè “hây hẩy”
gió nồm từ hướng đông thổi về, người thiếu nữ tuy chỉ “nằm chơi” nhưng rồi lại thiếp đi trong giấc ngủ ngày… Yếm đào trễ
xuống để lộ đôi “gò bồng đảo” và bên
dưới là “lạch đào nguyên”. Những bậc
quân tử phải phản ứng ra sao đây?
“… Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào
nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng
đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở,
ở không xong.”
(Thiếu
nữ ngủ ngày)
Bài
thơ dài “Đánh Cờ” khá dài, chỉ xin
trích ra một đoạn:
“… Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng
vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà,
chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí,
thiếp liền ghểnh sĩ.
“Chàng lừa thiếp
đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú
dí vô cung,
Thiếp đang mắc
nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ
đùng ra chiếu…”
Nhà
thơ “điên” Bùi Giáng đã viết hai câu
thơ “tưng tửng” nhưng rất lạ và cũng
độc đáo. Ngẫm lại sao thấy những “vần thơ
điên” lại… quá đúng:
“Những tưởng xuống trần gian chơi chốc lát,
Nào ngờ ở mãi
tận hôm nay”
Đôi
khi thi sĩ đã có những lần quên lãng… mà chuyện quên đó nhẹ như lông hồng đến độ
quên cả chính bản thân mình. Hai câu thơ dưới đây được Bùi Giáng làm từ những
ngày còn trẻ chứ không phải vì cái chứng “nhớ
nhớ, quên khi” (dementia) khi đã về già:
“Xưa kia tôi
đã có lần,
Bây giờ tôi đã
có phần tôi quên”
Phần
cuối của bài viết này xin dành đất cho nhà thơ Bút Tre và những bài minh hoạ của
các nhà thơ bình dân khác theo phong cách của ông. Thơ Bút Tre vừa độc đáo, vừa
sáng tạo, vừa dung tục nhưng lại giàu sức lan tỏa trong dân gian.
Cũng vì thế, Bút Tre đã trở thành một trường phái thơ dân gian rất thịnh hành ở miền Bắc và cho đến sau này cũng được nhiều người ở miền Nam biết đến. Người ta nhớ đến Bút Tre vì thơ ông gần với thể loại ca dao với cách gieo vần bất ngờ và lối dùng chữ đặc biệt.
“Làng ta có
cái núi voi
Đủ cả đầu
đuôi, đủ cả vòi
Voi cũng hăng
say đua sản xuất
Đầu thì trồng
sắn, đít trồng khoai”
“Quê Hương thi
sĩ Phú Thò [Phú Thọ]
Chè xanh, cọ
biếc, mập to trái chuồi [chuối]
Lòng còn nhớ
mãi cái buồi [buổi]
Đầu làm phân bắc,
chăn nuồi đàn bo [chăn nuôi đàn bò]
Cu Ba lông mượt
giống to
Cách màng văn
hoá đất tô lại càng...”
“Chị em du
kích tài thay
Bắn tàu bay Mỹ
rơi ngay cửa mình”
“Chị em nô nức
đặt vòng
hoa mộ liệt sĩ
tỏ lòng biết ơn”
Thơ
Bút Tre có một mảng, tạm gọi là “hoan
hô”, theo đúng tinh thần Xã hội Chủ nghĩa:
“Hoan hô anh Tạ Đình Đề
Trước đi theo
địch nay về với ta
Hoan hô anh Lê
Quảng Ba
Trước đi theo
phỉ nay ra hàng mình
Hoan hô đồng
chí Trường Chinh
Trước thân
Trung Quốc nay hình như thôi
Hoan hô chị
Nguyễn Thị Bình
Được mời ngồi
với bác Chinh bác Đồng
Hoan hô bác Vő
Chí Công
Cho làm khoán
hộ ruộng đồng tốt tươi
Hoan hô bộ trưởng
Đỗ Mười
Tác phong chậm
chễ mọi người vẫn khen.
Hoan hô đồng
chí Trần Hoàn
Lên làm Bộ trưởng
chiếu toàn phim hay.
Hoan hô anh
Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân bắc,
phân xanh đầy đồng.
Hoan hô cục
trưởng Hà Đăng
Ấn cho tàu chạy
băng băng như rùa
Hoan hô anh La
Văn Cầu
Cánh tay bị đứt
nhưng đầu vẫn nguyên”
“Hoan hô đại
tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng
trận Điện Biên trở về”
“Hoan Hô Đại
Tướng Võ Nguyên,
Giáp ta triệt
sản chị em ... quần hồng”
“Hoan hô đồng
chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ
một tuần về ngay”
“Hoan hô các cụ
trồng cây
Mười cây chết
chín một cây gật gù.
Chúng mày có mắt
như mù
Mười cây chết
cả gật gù ở đâu?”
Thật
thú vị khi làm một cuộc hành trình từ Bắc vào Nam qua thơ Bút Tre và những bài
hoạ của các nhà thơ theo trường phái của ông:
Anh đi công tác bản Mường
Tè xong một
cái lên đường về quê”
“Không đi
không biết Tam Đao [Tam Đảo]
Đi thì không
biết chỗ nào mà ngu [ngủ]
Một giường nó
nhét hai cu [cụ]
Thôi thì cố nhịn
đến chu nhật về… [chủ nhật]”
“Chưa đi chưa
biết Ðồ Sơn
Ði về mới biết
chẳng hơn đồ nhà
Ðồ nhà tuy xấu
tuy già
Nhưng là đồ thật
hơn là Ðồ Sơn”
“Nghệ An nổi
tiếng gió Lào
Trẻ già trai
gái người nào cũng đen”
“Chưa đi chưa
biết Cửa Lò
Đi về mới biết
nó to thế này”
Xuống
đến Miền Trung, một hoạt cảnh đa màu sắc nhưng không kém phần “đa ngôn, đa tứ” hiện ra trước mắt người
yêu thơ tếu:
“Chưa đi chưa
biết Huế thương,
Đi rồi mới biết
cũng thường như ai,
Nhưng mà Huế
thiệt là tài,
Họ chơi dưới
nước, mình chơi trên bờ”
“Nhớ nhung về
thị xã Phan
Thiết tha mơ
tưởng cô hàng nước măm [nước mắm]”
“Anh đi anh
ghé Buôn Mê
Thuột xong một
cái thì về với em”
“Chưa đi chưa
biết Cần Giờ
Đi rồi mới biết
họ… không cần gì”
“Chưa đi chưa
biết Vũng Tàu,
Mần mò Bãi Trước,
Bãi Sau: giống nhà!
Vũng nhà tuy hết
nõn nà,
Nhưng lành lại
tiện khỏi ra Vũng Tàu”
“Chưa đi chưa
biết Nha Trang,
Đi rồi mới thấy
họ sang hơn mình,
Có tắm biển có
tắm sình,
Có hồ nho nhỏ
cho mình tắm chim”
“Chưa đi chưa
biết Bình Dương,
Đi rồi mới biết
cường dương là cần,
Mát xa rồi lại
mát gần,
Âm dương cách
biệt một vòng cao su”
“Chưa đi chưa
biết Bến Tre,
Đi rồi mới biết
lắm tre nhiều dừa,
Dừa to dừa nhỏ
dừa vừa,
Bóp trên bóp
dưới nước dừa đầy tay”
Vào
đến Sài Gòn cũng có khá nhiều vần thơ ca tụng “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Nhưng có lẽ đoạn thơ dưới đây kể “Sài Gòn lẩm cẩm chuyện” đáng được lưu lại:
“Hôm nay giải
phóng Sài Gòn
Bà con phấn khởi
chạy bon ra đường
Có cô đang ngủ
trên giường
Vội vàng tỉnh
dậy, bị thường vào tày [bị thương vào tay]
Ô tô cấp kíu đến
ngay
Ðưa vào bệnh
viện ba ngày thì khoi… [khỏi]”
Quá
nhiều vần thơ để người đọc giảm stress…
nhưng vì khuôn khổ có hạn nên tạm dừng tại đây chỉ vì:
“Bao nhiêu bút
sắt mòn rồi,
Bút Tre vẫn để
cho người nguồn vui!”
Cuối
củng (nhưng không kém phần quan trọng) là lời khuyên thiết thực nhất dành cho
những nhà thơ theo “trường phái Bút Tre”:
“Làm thơ nên
tránh vần ồn
Kẻo không lại
đụng cái l… chị em”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét