Chủ
đề của bài viết này là những hồi ức học trò ngày xưa của một người bước vào tuổi
70. Thuở học trò này rất xa và rất khác với thời đại @ ngày nay,
khi mà các tiện nghi vật chất phong phú hơn, phương tiện giải trí đa dạng hơn
và quan niệm về giáo dục cũng khác hơn.
Những
nét khác nhau là hậu quả của hoàn cảnh xã hội và chính trị, cụ thể hơn là chính
sách giáo dục và chế độ chính trị qua nhiều thời kỳ, từ thời Pháp thuộc đến
giai đoạn 30 năm chiến tranh tương tàn.
Thuở học trò của chúng tôi chỉ có một mục đích duy
nhất là… học, nhưng đôi khi cũng pha lẫn những chuyện tình cảm theo kiểu mà
người Mỹ gọi là “tình chó con” (puppy love). Ngày nay, ngoài việc học còn có những
tác động, xấu cũng như tốt, từ Internet, phim ảnh, báo chí cho đến những ảnh hưởng
của người lớn như các bậc phụ huynh trong gia đình và sự tác động của xã hội
bên ngoài.
“Puppy Love”
Học
trò ngày xưa là mảng đề tài được khai thác rất “kỹ” qua văn chương, âm nhạc, hội
họa. Vào thập niên 70, bản nhạc “Ngày Xưa
Hoàng Thị” [1] của Phạm Duy, phổ thơ Phạm Thiên Thư [2] trở thành nổi tiếng
với một mối “tình học trò”. Bài hát dẫn người thưởng ngoạn đến chuyện một cô nữ
sinh tên Hoàng Thị Ngọ lúc tan trường, ôm nghiêng cặp, đi trong một
cơn mưa phùn và phía sau cô… lẽo đẽo một “cây si” di động:
“Em tan trường về, đường
mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở,
tóc dài, tà áo vờn bay
Em đi dịu dàng, bờ
vai em nhỏ
Chim non lề đường, nằm
im dấu mỏ
Anh theo Ngọ về gót
giầy lặng lẽ đường quê...”
Bức tranh học trò
Đó
chưa phải là tình yêu theo đúng nghĩa. Chỉ là… “thích trộm, nhớ thầm” của một “cây si”. Và chỉ cần lẽo đẽo theo một
tà áo dài trắng cũng đủ thỏa lòng, dù bước chân có “nặng nề”, dù trong lòng “nức
nở” để hôm sau vào lớp sẽ còn “ngẩn ngơ”:
“Em tan trường về
Anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề
Lòng anh nức nở
Mai vào lớp học
Anh còn ngẩn ngơ, ngẩn
ngơ…”
“Ngày Xưa Hoàng Thị” là một kết hợp tuyệt
vời giữa thơ Phạm Thiên Thư và nhạc Phạm Duy nhưng lại có một đoạn kết buồn cho…
“mối tình câm”. Ở đoạn kết đưa ra hai hình ảnh của “ngày xưa” và “ngày nay” với
câu kết “Ai mang bụi đỏ đi rồi…” khiến
tôi nghĩ ngay đến Ban Mê Thuột, thị trấn đã từng gắn bó từ tuổi học trò. Chả là
BMT vẫn nổi tiếng là vùng đất đỏ bazan, nắng thì BMT (Bụi Mù Trời) còn mưa thì…
bùn đỏ ngập bước chân:
“Xưa theo Ngọ về
Mái tóc Ngọ dài
Hôm nay đường này
Cây cao hàng gầy
Đi quanh tìm hoài
Ai mang bụi đỏ đi rồi…”
Học trò Đồng Khánh trên
cầu Trường Tiền
Trong
một cuộc phỏng vấn của Đỗ Văn với Phạm Duy, nhạc
sĩ cho biết trong số những bài hát cho tuổi trẻ, ông
thích nhất là bài “Tuổi Ngọc”…” bài hát này
ông viết cho con gái mới lớn Thái Hiền khi bước chân vào trung học. “Tuổi Ngọc” viết theo nhịp điệu nhí nhảnh với những câu được lập đi lập lại “Xin cho em…”. Những thứ cô xin là một chiếc áo dài, một mớ tóc dài
và một chiếc xe đạp [3].
Đó là tất cả hành trang của một cô gái khi bước vào trung
học. Chiếc áo dài “thơm dáng tuổi thơ”, mớ tóc nồng “êm như nhung” và, cuối
cùng:
“Xin cho em còn một xe đạp
Xe xinh xinh, để em đi học
Từng vòng, từng vòng xe
Là vòng đời nhỏ bé
Đạp bằng bàn chân gót đỏ hoe”
Chắc
nhà gần trường nên những học trò như cô Ngọ của Phạm
Thiên Thư mới cuốc bộ để “cây si” có dịp lẽo đẽo theo sau. Nếu nhà ở xa thì chắc
phải đến trường bằng xe đạp. Hình ảnh nữ sinh trên chiếc xe đạp sẽ khó có thể
nào quên trong kỷ niệm, nhất là đối với những người nay đã xa xứ, không còn cơ
hội nhìn thấy cảnh này.
Hồi
xưa nữ sinh còn đội nón lá đến trường, ít có những kiểu mũ “mô
đen” như ngày nay. Mỗi lúc tan học là cả một đàn bướm trắng bay ra rồi tỏa đi
khắp các con đường. Nhà gần thì ôm cặp đi bộ để các anh như Phạm Thiên Thư đưa
vào thơ. Nhà xa thì đạp xe theo từng nhóm như trong bức hình dưới đây trước Tòa
Đô Chánh.
Nữ sinh trên xe đạp trước Tòa Đô Chánh
Gia
đình khá giả thì có thể tậu một chiếc Velo Solex chạy bằng xăng, có cần khởi động
máy ở phía trước và khi hết xăng có thể đạp như một chiếc xe đạp. Nhà thơ
Nguyên Sa trong bài thơ "Tám phố Sài
Gòn " [4] có một đoạn viết về chiếc Solex và cô học trò như sau:
“Sài Gòn phóng solex
rất nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ
trong gants
Có nghe hơi thở cài
vương miện
Lên tóc đen mềm nhung
rất nhung”
Ngày xưa, đã có nhiều nhà văn, nhà thơ không tiếc lời ca
tụng hình ảnh nữ sinh trên chiếc Solex hoặc xe đạp. Ngày nay, họa hoằn lắm mới
gặp những lời có cánh về những chiếc xe “tay ga” phóng vù vù trên đường… Ôi, thời
thơ mộng của tuổi học trò nay còn đâu!
Nữ sinh bên chiếc Velo Solex
Thuở học trò của tôi cũng có một chuyện tình thuộc loại
“puppy love” như trong bài thơ của Phạm Thiên Thư. Tôi không có ý “thấy người sang bắt quàng làm họ” nhưng
quả thật cả hai đều có nhiều điểm rất giống nhau [5].
Thứ
nhất, tên “người trong mộng” của nhà thơ Phạm Thiên Thư là Hoàng Thị Ngọ, một
cái tên không được đẹp cho lắm, còn người tôi “mê” lại
có một cái tên “không thể xấu hơn”: Phan Thị Lụng. Cả hai
cô Ngọ và cô Lụng tuy có xấu tên
nhưng ngược lại, hai cô lại là những nữ sinh rất xinh.
Thứ
nhì, Phạm Thiên Thư tả cô Ngọ “vai nhỏ
tóc dài” còn cô Lụng “của tôi” thì tóc cũng dài nhưng lại cột theo kiểu
“đuôi gà” mà người Pháp gọi là “queu de cheval”, tức… “đuôi ngựa”. Ở đây có thêm
một sự trùng hợp, “ngựa” còn được gọi bằng cái tên “ngọ”!
Kiểu tóc đuôi gà đã hớp hồn tôi thuở học trò
Trong
thơ Phạm Thiên Thư có cảnh nên thơ giữa hai học trò “trao vội chùm hoa, ép vào cuốn vở” còn tôi thì chơi trội hơn, viết
luôn một cánh thiệp hồng báo hỷ bằng tiếng Pháp. Tôi không giỏi Pháp văn đến độ
viết được thiệp hồng mà chỉ copy từ cuốn “Cours
de Langue et de Civilisation Française” của Mauger đang học.
“Thiệp
báo hỉ” mang tên Nguyễn Ngọc Chính và Phan Thị Lụng được để trên yên xe đạp của
Lụng trong giờ ra chơi vì không đủ can đảm đưa tận tay nàng. Cho dù có đủ can đảm
nhưng chắc cũng không dám đưa vì cái lối “tỏ tình” quá đường đột này.
Chắc
chắn nàng đã đọc, không những thế, ngoài hai đứa còn có người thứ ba cũng đã đọc,
đó là thầy tổng giám thị. Ông “tế nhị” gặp riêng tôi và cảnh cáo cần phải chấm
dứt trò chơi “nguy hiểm” này, nếu tái phạm tôi sẽ bị “cấm túc” và thông báo về
gia đình.
Nữ sinh miền thùy dương cát
trắng Nha Trang
Thế
là bao mộng đẹp bỗng tan thành mây khói, mái tóc “đuôi ngựa” mà trước đây tôi
chết mê chết mệt bỗng nhiên biến mất khỏi tâm hồn tôi, còn tụi bạn trong lớp đã
sửa một câu ca dao quen thuộc thành:
“Muốn người ta mà người
ta không muốn,
Xách… ‘thiệp hồng’ chạy
xuống chạy lên!”
Học trò xứ BMT
Thuở
học trò ngày xưa của tôi là thế đấy. Học cũng nhiều và “nghịch tinh nghịch ngầm”
cũng không ít. Chẳng thế mà người ta thường nói: “Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”. Đã mấy chục năm nay tôi chưa một lần gặp lại Phan Thị Lụng kể từ hồi học
Đệ Ngũ.
Giờ này chắc nàng đã trở thành bà nội, bà ngoại… còn tôi
thì đã là một ông già móm mén bên con đàn cháu đống. Ước gì cô học trò năm xưa
đọc được những dòng chữ này để cùng cười cái thuở học trò "rắn mắt" ngày nào tại
xứ Buồn Muôn Thuở…
Học trò tỉnh lẻ
Đặc điểm của nền giáo dục VNCH là có sự tách biệt giữa
trường nam và trường nữ tại các thành phố lớn, một phần có lẽ là để tránh những
“phiền phức” xảy ra trong tuổi học trò mới lớn. Những địa phương nhỏ như BMT
thì học trò học chung, và đó cũng là lý do có những chuyện “mới nứt mắt” mà đã
biết… tán tỉnh bạn gái cùng lớp như trường hợp của tôi!
Ngôi trường trung học đầu tiên tại miền Nam là Collège
Chasseloup-Laubat, thành lập năm 1874 sau này đổi thành trường Lê Quý Đôn, tiếp
đến là Collège de My Tho (1879), sau đổi tên là Nguyễn Đình Chiểu. Ở Huế có trường Quốc Học dành cho nam sinh được thành lập từ
năm 1896 và trường Đồng Khánh được dành cho nữ, thành lập từ năm 1917.
Thoạt đầu trường Đồng Khánh chỉ có cấp tiểu học với với đồng phục màu tím nên còn được
gọi là “Trường Áo Tím”. Dưới thời
Pháp thuộc đồng phục đổi sang màu xanh nước biển và bắt đầu từ Đệ nhất Cộng hòa
có đồng phục màu trắng.
Nữ sinh Đồng Khánh (năm
1931)
Nổi
bật nhất tại Sài Gòn là hai trường Gia Long và Trưng Vương, những địa chỉ được
các “cây si” thường xuyên lui tới. Gia Long còn được gọi là trường “Nữ sinh Áo Tím” ngày nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai, được thành lập từ năm 1915 và thuộc loại “lão làng” trong hệ thống giáo dục của Hòn ngọc Viễn đông.
Xét
về tuổi tác thì trường Trưng Vương là em
vì phải từ Hà Nội “di cư” vào Nam năm 1954 sau Hiệp định Genève. Năm học đầu tiên Trưng Vương còn phải học nhờ Gia Long vào buổi chiều. Mãi đến năm 1957, trường Trưng Vương mới chính thức xây dựng xong trường ốc gần Sở thú cùng với
Võ Trường Toản.
Gia
Long và Trưng Vương tượng trưng hai chị em xuất xứ từ hai miền Nam – Bắc trong
suốt thời kỳ VNCH. Sau năm 1975, hai trường mở cửa tiếp nhận cả nam lẫn nữ sinh.
Và có lẽ những chuyện như cô Ngọ, cô Lụng lại tiếp diễn nhưng chắc ở mức độ “hiện
đại” hơn thuở chúng tôi còn đi học.
Xe hoa của trường Trưng Vương nhân ngày Phụ nữ Việt Nam
năm 1960
***
Chú
thích:
[1]
Nghe “Ngày Xưa Hoàng Thị” qua giọng
ca “bất hủ” của Thái Thanh tại:
[2]
Đọc về Phạm Thiên Thư và “Ngày Xưa Hoàng
Thị” tại:
[3] Xem video clip Đỗ Văn phỏng vấn Phạm Duy và bài hát “Tuổi ngọc” do Thái Thảo trình bày tại:
[4]
Nhiều người thắc mắc tại sao Nguyên Sa lại đặt tên bài thơ là "Tám phố Sài Gòn"? Đơn giản chỉ
vì bài thơ này gồm 8 đoản khúc:
"Sài Gòn đi rất
chậm buổi chiều
cánh tay tà áo sát
vòng eo
có nghe đôi mắt vòng
quanh áo
năm ngón thơ buồn đứng
ngó theo
Sài Gòn phóng solex rất
nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ
trong gants
Có nghe hơi thở cài
vương miện
Lên tóc đen mềm nhung
rất nhung
Sài Gòn ngồi thư viện
rất nghiêm
Tờ hoa trang sách
cũng nằm im
Đầu thư và cuối cùng
trang giấy
Những chữ y dài trông
rất ngoan
Sài Gòn tối đi học một
mình
Cột đèn theo gót bóng
lung linh
Mặt trăng theo ánh
đèn trăng sáng
Đôi mắt trông vời
theo ánh trăng
Sài Gòn cười đôi môi
rất tròn
Vòng cung mầu đỏ nét
thu cong
Cầu vồng bắt giữa mưa
và nắng
Hay đã đưa dần sang
nhớ mong
Sài Gòn gối đầu trên
cánh tay
Những năm mười sáu mắt
nhìn mây
Chiếc tay tròn ánh
trăng mười bốn
Tiếng nhạc đang về
dang cánh bay
Sài Gòn nắng hay Sài
Gòn mưa
Thứ bẩy Sài Gòn đi
Bodard
Guốc cao gót nhỏ mây
vào gót
Áo lụa trăng mềm bay
xuống thơ
Sài Gòn mai gọi nhau
bằng cưng
Vành môi nghiêng cánh
xuống phân vân
Lưng trời không có bầy
chim én
Thành phố đi về cũng
đã xuân".
[5]
Đọc “Người đẹp Sài Gòn xưa: Từ mái tóc đến
đôi guốc” tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/08/nguoi-ep-sai-gon-xua-tu-mai-toc-en-oi.html
***
Bình luận trên Facebook:
***
Bình luận trên Facebook:
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người,
Chương 2 – Thời niên thiếu)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1.
Chương 1: Thời thơ ấu (từ
Hà Nội vào Đà Lạt)
2.
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà
Lạt và Ban Mê Thuột)
3.
Chương 3: Thời thanh niên (Sài
Gòn)
4.
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài
Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng
Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.
Chương 6: Thời điêu linh (Sài
Gòn, Đà Lạt)
7.
Chương 7: Thời mở lòng (những
chuyện tình cảm)
8.
Chương 8: Thời mở cửa (Bước
vào nghề báo, thập niên 80)
9.
Chương 9: Thời hội nhập (Bút
ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một
Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
Anh Chính đã in những bài viết của anh thành sách chưa?
Trả lờiXóaTôi chưa in thành sách và cũng sẽ không xuất bản, chỉ để bạn bè thân hữu chia sẻ trên blog mà thôi. Thật tình, danh vọng đối với tôi vào tuổi này không quan trọng nữa... Có một người bạn ngỏ ý muốn xuất bản, tôi hẹn anh ta khi tôi qua đời anh sẽ có toàn quyền sử dụng các bài viết này... Còn bây giờ tôi vẫn viết thì làm sao in thành sách được!
Xóa