Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2021

Đông & Tây gặp nhau qua Victor Hugo & Hồ Biểu Chánh

“Những người khốn khổ” (Les Misérables) là tiểu thuyết của văn hào Pháp, Victor Hugo (1802-1885), xuất bản năm 1862. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19, viết về xã hội Pháp vào thời Napoléon Đệ Nhất.

 

Victor Hugo (1802-1885)

 

Năm 1926, nhà văn miền Nam, Hồ Biểu Chánh (1885-1958), phóng tác “Les Miserables” để thành “Ngọn cỏ gió đùa” với bối cảnh ở huyện Tân Hòa, ngày nay thuộc tỉnh Gò Công, khi đó đang trong cảnh mất mùa, đói kém.

Cũng trong năm 1926, một bản dịch của “Les Misérables” do Nguyễn Văn Vĩnh xuất bản với tên "Những kẻ khốn nạn", của nhà Trung Bắc Tân Văn ở Hà Nội in song ngữ, dài 10 tập, khoảng 3000 trang. Như vậy là có đến 2 tác phẩm bằng tiếng Việt được dựa vào “Les Misérables”!

 

“Những kẻ khốn nạn”, bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh

 

Hồ Biểu Chánh đã đưa nhân vật chính Jean Valjean-Madeleine trong “Les Misérables” về Việt Nam với cái tên Lê Văn Đó. Jean Valjean được Victor Hugo mô tả là cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống mộ cách tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ đen tối của mình.

Trong khi đó, nhân vật Lê Văn Ðó của Hồ Biểu Chánh, tuổi vừa mới hai mươi, được Hồ Biểu Chánh mô tả là “vóc vạt cao lớn , sức lực mạnh mẽ hơn người, tánh nó chơn chất thiệt thà, trí nó chậm lục u ám song nó hết lòng lo làm mà nuôi mẹ già, nuôi chị dâu, nuôi cháu dại”.

 

“Ngọn cỏ gió đùa” - Hồ Biểu Chánh

 

Tội lỗi ban đầu của cả hai nhân vật thật nhỏ nhoi: Lần đầu Jean Valjean phạm tội vì “ăn cắp một mẩu bánh mì cho con của người chị gái” còn Lê Văn Ðó cũng chỉ “ăn cắp một chảo cháo heo” của nhà bá hộ Cao với ý định đem về cho lũ cháu đang đói ăn. Ta hãy đọc Hồ Biểu Chánh:

“Nghèo khổ không cơm mà nuôi gia quyến, họ giàu có dư dả ăn không hết, đến mượn một vài giạ lúa về mà cứu cấp mẹ già cháu nhỏ đói nằm thở hoi hóp, họ không cho mượn lại còn xô đuổi. Cùng thế bưng cháo của heo ăn đem về cho mẹ với cháu ăn đỡ, họ không nghĩ lại bắt mà đánh. Con nhà nghèo ai gặp cảnh như vầy chắc cũng phải oán hận nhà giàu. Thảm thương Lê-văn-Ðó vì tánh dốt nát thiệt thà, nên thân khổ nhục đến nước nầy, mà cũng chưa biết buồn, chưa biết oán”.

 

Hồ Biểu Chánh (1885-1958)

 

Chi tiết Jean Valjean ăn cắp ổ bánh mì bên Tây sao lại trùng hợp với chuyện thời sự gần đây ở bên Ta: cũng chỉ vì một ổ bánh mà tội nhân phải ra tòa. Quan tòa nhân danh công lý để trừng phạt kẻ trộm mà không màng đến hoàn cảnh của người phạm tội!

Ngày nay, biết bao kẻ “quyền cao, chức trọng” nhưng lòng tham không đáy, chúng “ăn cắp” bạc tỷ của người dân nhưng vẫn nhởn nhơ, “ăn trên ngồi chóc”. Công lý ở đâu mà không đụng đến chúng? Trong khi người dân nghèo vì đói nên phải “ăn cắp một ổ bánh mì” công lý cũng không tha?

Trong “Les Misérables”, Giám mục Myriel được Victor Hugo nhấn mạnh đến cả trăm trang. Ông có thể được coi như một vị thánh, gần như hoàn hảo. Ông đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu nhưng Jean Valjean lại ăn cắp bộ chân đèn cầy bằng bạc của nhà thờ.

Nhưng cũng chính Gám mục cứu thoát anh khi khai với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Vị Giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người: “Hãy nhớ người anh em, hãy làm chuyện hợp lý, hãy dùng những thứ quý giá này, để trở thành người tốt. Chúa đã kéo anh ra khỏi nơi u tối, tôi đã cứu linh hồn anh”.




Trong khi đó, Hồ Biểu Chánh tóm tắt đức hạnh của Hòa thượng Chánh Tâm trong “Ngọn cỏ gió đùa” qua một cuộc hội ngộ giữa Thiện và Ác. Với giọng điệu của một tay giang hồ, Lê Văn Đó nói với Hòa thượng:

“Tao đây là Lê-văn-Ðó, ở Giồng-Tre, người ta nói tao ăn trộm nên đày tao 20 năm. Nay tao mãn tù đi về xứ. Ba ngày rày tao không có ăn cơm, tới đâu xin ăn họ cũng đuổi không cho ăn nên tao đói bụng lung lắm. Mầy chịu cho tao một vài chén cơm ăn đỡ đói hay không thì mầy nói phứt đi, tao không thèm năn nỉ nữa đâu.

“Lời nói nghe nghinh-ngang, mà bộ tịch coi rất hung ác, mà Hòa thượng không nổi giận, không tức cười, cứ đứng ngó Lê-văn-Ðó như thường và nói hòa huởn rằng: “Phật không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ lành người dữ. Phật thì tế độ chúng sanh. Bần-đạo đã có dạy dọn cơm rồi. Vậy chú em nằm mà chờ một chút, rồi tăng chúng sẽ dọn cho mà ăn”.

(hết trích)

 

“Những người khốn khổ”, bản dịch của Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Vũ Đình Liên, Đỗ Đức Hiếu

 

Đêm hôm đó, khi mọi người trong chùa đã ngủ say, tên tù được phóng thích Lê Văn Đó đã lấy cắp bộ chén trà bằng ngọc của chùa! Đến sáng hai chú tiểu mới phát hiện và trình lên Hòa thượng Chánh Tâm, ông chỉ nói một câu:

“Ðạo chúng, chẳng nên tìm kiếm làm chi. Bộ chén với cái bình đó là dấu tích của bần-đạo làm quan ngày trước, có lẽ Phật không muốn cho bần-đạo thấy dấu tích trần tục nữa, nên mới khiến cho người ta đến đây mà lấy, chớ không phải người ta có bụng gian tham đâu. Vậy đạo chúng chẳng nên giận mà tổn công đức.”

 

 

“Les Miserables”, bản tiếng Anh

 

Cả hai nhân vật tiểu thuyết của Đông Phương và Tây Phương đều phải đương đầu với những thử thách, lựa chọn khó khăn nhất vì đó là một cuộc chiến đấu với chính bản thân mình. Nhiều câu hỏi được đặt ra, chẳng hạn như có nên ra thú nhận quá khứ của mình là tên tù hình sự hay không?

Có nên giữ những người phụ nữ mình gặp để sống với mình trong hạnh phúc như bao người bình thường khác hay không? Có nên hy sinh tình yêu của mình cho người khác hay không?

Trên bước đường lưu lạc trong thân phận trước đây chỉ là một kẻ tù đầy, Jean Valjean cũng như Lê Văn Đó còn phải đương đầu với những diễn biến chính trị của thời đại mà mình sống.



 

Ở bên Tây, Valjean lạc vào một khu công sự chiến đấu nhưng lại không phải để tham gia cách mạng như những đồng chí khác. Ở Việt Nam, Lê Văn Đó không tham gia cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi vì anh vốn là nông dân, không liên hệ đến lý tưởng “trung quân ái quốc” như một người có học, như một người trí thức.

Khi Lê Văn Khôi khởi nghĩa, anh bị buộc phải cung cấp thóc gạo cho triều đình dẹp loạn, còn lúc tàn dư của Lê Văn Khôi nổi lên, anh chỉ vì tình cờ mà cộng tác với quân nổi dậy.

Trong “Les Misérables”, cuộc tranh luận về ý thức hệ chánh trị và sự xung khắc về chính kiến đã xảy ra. Victor Hugo đã để cho con Jean Valjean tiếp nối ý hướng cha, tham gia cách mạng, trở thành một người lãnh đạo tích cực trong phong trào nổi dậy ở Paris.

Hồ Biểu Chánh tuy nói rất ít về Thế Phụng, con trai Lê Văn Đó, dù Thế Phụng cũng nối chí cha tham gia các hoạt động nổi loạn của đám tàn quân Lê Văn Khôi. Điều người đọc chú ý hơn cả là con người Thế Phụng với sự hiếu thảo: Khi biết cha còn sống, thì đặt việc đi tìm cha trên hết, bỏ học, bỏ thi cử. Sau khi cha mất, về nơi ngôi nhà mà cha đã ẩn dật đi câu tôm cá.

 

Phim “Les Miserables”

 

Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nhìn chung và “Ngọn cỏ gió đùa” nói riêng đã thể hiện tinh thần và phong cách viết tiểu thuyết theo quan niệm Tây phương, và đó là một điều mới lạ với truyền thống văn học Việt Nam.

Hồ Biểu Chánh là nhà văn chỉ mô tả, kể truyện chứ không bộc lộ “cái tôi” của mình một cách lộ liễu. Khác hẳn với lối văn nghị luận, diễn thuyết như Victor Hugo. Hồ Biểu Chánh cũng nói về đạo đức nhưng không khiến người đọc có cảm tưởng là tác giả thuyết giảng mà chỉ diễn tả bằng những lời đối đáp giữa các nhân vật.

Victor Hugo đã từng nói về tác phẩm “Les Misarables” của mình: "Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất, trong sự nghiệp cầm bút của mình".

Trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời, Jean Valjean cho Cosette và Marius biết về quá khứ của mình và anh đã tìm thấy niềm hạnh phúc khi đứa con gái nuôi yêu quý và con rể ở bên cạnh mình. Jean Valjean nhìn Cosette với ánh mắt trìu mến, anh nói:

“Giờ con đã đến đây, ngay bên cạnh bố, giờ bố có thể thanh thản ra đi, cuộc đời bố đã được tha thứ, con hãy để bố chết, đây là lá thư thú tội cuối cùng, con hãy đọc kỹ, khi bố đã yên nghỉ: Đó là câu chuyện của một người bị xã hội ruồng bỏ, một người chỉ muốn học cách yêu thương và đã nuôi con nên người”.




Nhiều nhà phê bình văn học coi cuốn “Les Misérables” là một tiểu thuyết xã hội, một thiên anh hùng ca. Người ta cũng có thể nói “Ngọn cỏ gió đùa” là một tiểu thuyết xã hội hiểu theo nghĩa mô tả những cảnh cùng cực của những con người nghèo khổ hay bị áp bức về mặt xã hội cũng như giới tính.

Nếu hiểu như vậy, cả hai tác phẩm - nguyên tác “Les Misarables” của Victor Hugo và phóng tác “Ngọn cỏ gió đùa” của Hồ Biểu Chánh - đều là những tác phẩm lớn, có giá trị riêng biệt của nó.

Cả hai nhà văn lớn của Phương Đông và Phương Tây đã gặp nhau, dù cách diễn tả có phần nào khác biệt về hoàn cảnh xã hội và chính trị của từng thời kỳ.

 *** 

--> Read more..

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2021

Chuyện "Điên Nặng" ở Texas: Vì Đâu Nên Nỗi?

* Lời giới thiệu: Ông bạn đồng môn thời Trung học của tôi, Nguyễn Văn Hoa, là người đã gần 40 năm “lăn lộn” trong nghề “điên nặng” sau khi tốt nghiệp Phú Thọ ở Sài Gòn và hiện định cư tại Hoa Kỳ. Ông đã về hưu và Tết vừa rồi đã phải đón xuân trong một hoàn cảnh “không điện, không nước và cũng không Internet” tại Austin, thủ phủ của tiểu bang Texas! Điện là “nghề của chàng” nên trong một email viết ngày Mùng 10 Tết Tân Sửu ông vừa “than trời” cũng vừa “than người” về những ngày “điên nặng”.  Vì là một kỹ sư điện, ông không chỉ than thở mà còn có những ý kiến chuyên môn phân tích sự kiện để tìm hiểu vấn đề… Thư hơi dài nhưng cũng mời các bạn ráng đọc hết (nếu đủ kiên nhẫn)!

 *** 

Sau ngày 23 tháng Chạp đưa ông Táo về trời, tôi khấp khởi mừng thầm vì năm Canh Tý – năm tuổi của tôi – sắp hết mà chưa có điều gì xui xẻo lớn xảy đến. Không dè đến đêm 27 và 28 tháng Chạp, trời Austin (Texas) trở mưa lớn, và nhiệt độ tụt xuống đến 20° Fahrenheit (khoảng ­7° Celsius) [Phải là -7° Celsius, tác giả viết thiếu dấu - . Chú thích của NNC]; và sáng hôm sau, 29 tháng Chạp, khoảng 11 giờ sáng nhà tôi bị cúp điện.

Điện nhà tôi do thành phố Austin cung cấp dưới cái tên nghe rất kêu là “Austin Energy.”  Nghĩ trong đầu là không bao lâu sẽ có điện trở lại, vợ chồng tôi hồn nhiên ăn cơm trưa dưới ánh nến (mua dùng cúng Tết), và rồi kiên nhẫn ăn tối và bực bội cúng giao thừa cũng dưới ánh nến. 

Đồng thời, chúng tôi lạnh cóng vì không có điện thì máy sưởi dùng động cơ điện thổi hơi ấm ra ngoài không chạy, đành phải mở lò gas nấu ăn lên để giữ ấm một phần nào.  Bước sang năm Tân Sửu lạnh lẽo trong bóng tối, không có máy sưởi ấm, không có Internet, không ti-vi tin tức, và cạn pin điện thoại di động, chúng tôi vào giường buổi tối với hai ba lớp quần áo dày cộm.

Theo lời khuyên của thành phố, để giữ ống nước khỏi đóng băng, chúng tôi để tất cả các vòi nước trong nhà nhỏ giọt suốt ngày đêm. Mấy ngày đầu năm mới, trời Austin lạnh kinh hồn, hai đêm liền nhiệt độ tụt xuống đến 5 và 6°F (khoảng ­15°C) [Phải là -15° Celsius, tác giả viết thiếu dấu - . Chú thích của NNC], và tuyết rơi liên miên chồng chất đến 10–12-inch (khoảng 0.3 m), phủ lấp mái nhà và đường đi.

Ở Austin, hai điều kiện thời tiết hà khắc này chưa bao giờ xảy ra cùng một lúc. Trong mấy ngày kế tiếp, nhiệt độ nằm lì dưới nhiệt độ đóng băng 32°F, chúng tôi bị “cầm tù” vì đường sá đầy tuyết và nước đá, không đi lại được, và chỉ có cách “tử thủ” và tìm cách sống còn trong nhà mình. 

Nhờ để nước nhỏ giọt, ống nước lạnh từ ống nước chính của thành phố vào nhà không bị đóng băng, nhưng nhiệt độ quá thấp khiến cho ống nước nóng chạy trong tường từ máy nước nóng vào nhà kém may mắn hơn, bị đóng băng (và bị vỡ vì nước đóng băng thì tăng thể tích); vậy là chúng tôi mất nước nóng.

Sau hơn một tuần mất điện, chúng tôi có điện lại tối mồng 7 Tết. Trước đó hai ngày, lúc trời ấm lại bình thường, ống nước nóng rã băng và phun nước ào ào từ trong tường ra ngoài, và chúng tôi phải gọi người khóa nước từ ống dẫn chính của thành phố và như thế hoàn toàn mất . . . nước.

Hôm nay, ngày mồng 10 Tết, chúng tôi đang chờ thợ ống nước tới sửa. Từ năm cũ đến nay, vì lúc đầu thiếu ánh sáng và sau đó thì mất nước, hàng ngày chúng tôi nấu nước nóng và dùng khăn mặt lau người; đó là phương pháp “tắm khô” tôi từng dùng thời còn trẻ bỏ nhà đi bụi đời. 

Vẫn cố gắng nấu ăn (vì không thể ra ngoài) nhưng khi rửa chén và nồi niêu soong chảo phải dùng phương pháp rửa tô của các bà bán bún bò gánh ngày xưa ở Huế: chỉ một thau nước nhỏ và cái khăn lau mà các bà “rửa” hết tô này sang tô khác suốt ngày. Ngày nay, chúng tôi “tiến bộ” hơn vì có các cuộn paper towel rất tốt và dễ dùng.  Và phương pháp cổ điển này sẽ còn được dùng ít nhất là ba, bốn ngày nữa.

Thực ra, trong tuần lễ “mất điện” đó, điện có trở lại vài ba lần, nhưng lần nào cũng chập chờn khoảng 10 hay 15 phút rồi biến mất. Lần điện tái xuất giang hồ lâu nhất là khoảng nửa tiếng đồng hồ trước nửa đêm mồng 4 Tết. Sau đó, tôi nghe tin tức nói ERCOT (Electric Reliability Council of Texas) lúc đó đã ra lệnh cho Austin Energy và các công ty điện lực ở Texas cúp điện luân phiên.  ERCOT là cơ quan điều hành hệ thống điện và chỉ huy các công ty điện lực trong tiểu bang.

Cúp điện luân phiên là một cách giải quyết vấn đề thiếu điện; công ty điện lực chia vùng phục vụ thành từng khu, cho mỗi khu có điện 45 phút rồi cúp đi, và đóng điện cung cấp cho khu khác. Không may cuộc cúp điện luân phiên thất bại ê chề và khiến cho hơn 40 phần trăm khách hàng toàn tiểu bang bị mất điện tuốt luốt. 

ERCOT cho biết, lúc đó nếu không ngưng kịp thời, chỉ trong vòng vài phút hay vài giây là tai ương xảy đến: toàn thể hệ thống điện Texas sẽ sụp đổ hoàn toàn, và sẽ cần vài tháng mới có thể phục hồi. Về mặt kỹ thuật, các viên chức có trách nhiệm trong việc quyết định và thi hành công tác cúp điện luân phiên này xứng đáng được thưởng huy chương vàng về sự . . . bất tài.

Vì Sao Nên Nỗi?

Là một kỹ sư điện hồi hưu, chúng tôi đã từng làm việc gần 40 năm trong ngành điện lực Hoa Kỳ, trong đó khoảng 13 năm là hội viên của Reliability Assessment Subcommittee (RAS) là tiểu ban có nhiệm vụ nghiên cứu, tiên liệu, và tìm cách ngăn ngừa những vụ cúp điện rộng lớn ở Bắc Mỹ, tương tự như vụ cúp điện Texas trong tuần lễ vừa qua.  RAS là một ủy ban thuộc North American Electric Reliability Council (NERC), NERC là cơ quan tầm Bắc Mỹ chỉ huy và bao gồm các cơ quan như ERCOT.

Theo lời yêu cầu của anh bạn trẻ Nguyễn Đình Hiếu đang biên tập và trình bày cho Nguyệt san KBC, chúng tôi ghi lại dưới đây một số cảm nghĩ tại sao “dân Texas phải gánh chịu những ngày ‘thảm thương’ như thế.  Lỗi tại ai hay lỗi tại . . . Trời?” (nguyên văn thư của Hiếu).

Lỗi tại . . . Trời.

Dĩ nhiên đổ lỗi cho ông Trời, hay “khoa học” hơn là đổ thừa cho hiện tượng “biến đổi khí hậu,” là cách giải thích dễ dàng và an toàn nhất. Mưa lạnh và tuyết rơi cộng thêm nhiệt độ cực kỳ (nói một cách tương đối) lạnh giá lúc đầu khiến cho các đường dây tải điện đến khách hàng bị đứt, khách hàng mất điện. Đồng thời, thời tiết giá lạnh làm cho các cơ quan điện lực thiếu khả năng cung cấp điện (“thiếu điện”), càng làm cho việc phục hồi điện cho khách hàng khó khăn và trì trệ.

Nước mưa và tuyết tan thành nước đọng trên dây truyền điện, gặp lạnh đông thành đá, và khiến cho dây nặng quá sức, bị đứt ra rơi xuống, và không thể tải điện từ nhà máy đến người tiêu thụ. Texas lại có rất nhiều cây cối; nước đọng trên lá và cành cây khiến cành cây trĩu nặng, gãy lìa ra khỏi thân cây, và hoặc là rơi đè lên nối tắt hoặc là kéo đứt các dây phân phối dẫn điện vào nhà khách hàng. Tóm lại, dây điện đứt là do thời tiết ông Trời gây ra, người đành ngậm đắng nuốt cay mà khó có thể làm gì được.

Nhưng tại sao thiếu điện? Trong một số năm gần đây, do chính sách của chính phủ và khuynh hướng của quần chúng cổ võ việc bảo vệ môi sinh và ngăn ngừa hiện tượng sưởi ấm toàn cầu, Texas cũng như nhiều tiểu bang khác đã thiết trí nhiều nhà máy phát điện dùng năng lượng gió cũng như khai thác triệt để năng lượng mặt trời. 

Cả hai loại “nhiên liệu” tái tạo này có sẵn trong thiên nhiên, người ta chỉ tốn tiền xây nhà máy và dụng cụ, sau đó dùng “miễn phí.”  Austin Energy lôi cuốn khách hàng tư gia thiết trí các tấm pin quang điện trên mái nhà để giảm bớt nhu cầu dùng điện, và do đó giảm nhu cầu xây cất nhà máy phát điện, bằng cách tặng tiền mặt (gọi là “rebate”) cho khách hàng giảm bớt chi phí.

Thí dụ, các tấm pin quang điện giá $25,000, Austin Energy có thể tặng cho khách hàng $10,000 tiền mặt. Khách hàng còn có thể được miễn thuế lợi tức một phần (40 phần trăm chẳng hạn) của chi phí $15,000 còn lại. Từ các chính trị gia đến công ty điện lực và khách hàng, ai nấy đều thơ thới hân hoan, vờ quên mất rằng sẽ có một lúc nào đó gió không thổi và mặt trời không hiện ra, lấy điện đâu ra để khách hàng dùng và có được những tiện nghi của đời sống văn minh?

“Lúc nào đó” đã xảy ra. Trời mưa lạnh và tuyết rơi tan thành nước và đông đá trên cánh quạt của các trụ phát điện dùng năng lượng gió, bão tuyết dữ với gió thổi mạnh có thể bẻ gãy các cánh quạt này, và các trụ phát điện phải ngưng hoạt động.

Năng lượng gió trở thành vô dụng. Tuyết và mây mù che khuất mặt trời, dân Texas đành hôn chia tay với năng lượng mặt trời; nhu cầu dùng điện tưởng là đã giảm nay lại càng gia tăng hơn vì trời lạnh giá và thiếu ánh sáng mặt trời. Ôi thôi, thế là anh em ta cùng nhau hô lên là thiếu điện.

Lỗi tại . . .  Người

Theo ý kiến thô thiển của chúng tôi, đổ lỗi “thiếu điện” cho ông Trời thì quả là lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Nhà nghiên cứu kế hoạch điện lực luôn luôn tâm niệm công ty điện lực có “nghĩa vụ phụng sự” (obligation to serve) khách hàng trong mọi trường hợp. Ở một cửa hàng bách hóa, nếu khách hàng đến mua một đôi giày mà cửa hàng không có, khách phải ra về hay tìm mua ở cửa hàng khác. Công ty điện lực không thể làm như thế, bất cứ lúc nào khách hàng bật đèn lên hay cắm một dụng cụ vào ổ điện, khách mong đợi đèn đỏ lên hay dụng cụ hoạt động ngay lập tức.

Để thực hiện sứ mạng của mình, công ty điện lực phân biệt hai loại khả năng của hệ thống phát điện: Một là “năng lượng” (energy) tương tự lượng kilowatt-giờ công ty điện lực đọc đồng hồ tính tiền khách hàng tư gia. Hai là “khả năng cung cấp điện” (capability) là công suất điện có thể cung cấp bất cứ lúc nào khách hàng cần tới. 

Trước đây, khả năng “được công nhận” (accredited) của các nguồn điện dùng năng lượng tái tạo bị quy là rất thấp. Thí dụ, căn cứ theo thống kê về hoạt động thực sự của nhà máy phát điện dùng gió, người ta chỉ công nhận khả năng của chúng khoảng 6-10 phần trăm, và các nguồn điện mặt trời khoảng 3-5 phần trăm. Ngoài ra, NERC và các cơ quan như ERCOT còn đòi hỏi mỗi công ty điện lực phải có đủ khả năng cung cấp điện cho khách hàng ở thời điểm dùng điện cao nhất trong năm, cộng thêm “số dư dự trữ” (reserve margin) thường là 15-18 phần trăm nhu cầu tối đa của khách hàng.  Như thế, dù “có chuyện gì xảy ra,” công ty điện lực vẫn đủ khả năng đối phó với tình thế bất trắc.

Trong những năm gần đây, do chính sách của chính phủ, các yếu tố kinh tế, và tâm lý quần chúng, nguồn điện dùng năng lượng tái tạo trở thành những mặt hàng quý giá.  Khả năng được công nhận của nhà máy gió được nâng lên đến 60-80 phần trăm, năng lượng mặt trời đến 30-50 phần trăm. 

Song song với sự “sáng tạo” ra các khả năng cung cấp điện ma, người ta không còn đòi hỏi công ty điện lực có thêm số dư dự trữ, với lý do các hệ thống điện nối liền với nhau và có thể giúp đỡ lẫn nhau khi cần. Họ vờ quên mất rằng khi thời tiết khắc nghiệt xảy đến trong một diện tích rộng lớn như cơn bão lạnh Texas vừa qua, công ty nào cũng bị ảnh hưởng, cũng bị thiếu điện, và không thể trợ giúp công ty khác.  Không còn tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn (chứa lúa để ngừa đói, để dành áo phòng khi lạnh) như cái thuở không mấy xa xưa ấy.

Xem ra, lý do khiến Texas thiếu điện và nạn cúp điện kéo dài hơn mười ngày là lỗi tại...  người. “Người” ở đây có thể hiểu là các chính trị gia hay các nhà quản trị điện lực ở cấp cao nhất; từ năm, mười, hay mười lăm năm nay, họ đã dần dần tạo nên những chính sách và đường lối đưa lại hậu quả chẳng đặng đừng như đã thấy. 

Ta cũng có thể đổ lỗi cho các kỹ sư thiếu khả năng tìm ra bột để khuấy thành hồ. Nhưng trong một quốc gia dân chủ như Hoa kỳ, trách nhiệm tối hậu là của người dân.  Họ đã bỏ phiếu bầu người lãnh đạo, đặt viên chức có thẩm quyền vào những chức vụ quyết định, và chấp thuận các chính sách đề ra. Nếu chưa kể họ đã tận hưởng những lợi lộc phát sinh từ các chính sách đó.

Tôi đã thấy rõ và tiên liệu những gì sẽ xảy đến, và dĩ nhiên không đồng ý với những chủ trương “cấp tiến” đó.  Nhưng tôi là thiểu số.  Vì vậy mà phe tôi bị thất cử.

Nguyễn văn Hoa

Ngày 21 tháng Hai, 2021 

***

 * Bài đọc thêm của chủ blog:

 "Xứ Cao Bồi" chìm sâu trong tuyết!

Texas thường được mệnh danh là “Xứ Cao Bồi”, nơi ngày xưa các chàng chăn bò cưỡi ngựa giữa những đồng cỏ khô cằn, quanh năm rực nắng. Tôi cũng đã từng ở thành phố San Antonio, Texas,, không phải là để “chăn bò”, mà là du học vào những năm 1971 – 1973. Trời nóng không thua gì ở Việt Nam!

Ấy thế mà mùa đông năm nay Texas chìm ngập trong tuyết, và đặc biệt hơn nữa, những cơn bão tuyết đã quét qua tiểu bang nắng ấm này! Texas năm nay chẳng khác gì xứ Canada với nhiệt độ xuống đến -19°C. Một hiện tượng chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ vừa qua!

Nhiều người dân Texas đã phải trải qua những ngày bị cúp điện vì bão tuyết và cuộc sống bình thường đã bị đảo lộn chưa từng thấy! Hàng triệu cư dân Texas đang sống trong cái lạnh cắt da, đó là một trải nghiệm mà nhiều người chưa từng trải qua trong đời!

Có viết nhiều thế nào đi nữa cũng không thể diễn tả hết Texas mùa đông năm nay… Chi bằng mời các bạn xem một số hình ảnh chụp từ các thành phố ở Texas. Riêng tôi, những hình ảnh đó gợi lại những ngày xưa hoàn toàn khác hẳn!

Cầu chúc mọi khó khăn về thời tiết mau chóng qua đi để Texas trở lại cuộc sống bình thuờng!

 ***

Austin, thủ phủ của Texas, trong những ngày băng giá


Dallas - Quạt trần đóng băng


Dallas - Trong toilet


Fredericksburg - Cảnh không giống như Texas ngày nào!


Houston - Bồn phun nước đã bị đóng băng


Houston - Vườn chơi dành cho trẻ em chỉ còn là băng tuyết


Houston - Ngày Lể Valentine trên xa lộ


Bò sừng dài (Texas Longhorn) tại Enchanted Rock State Park


Cảnh có một không hai - Cây xương rồng vốn chỉ quen với sa mạc nay cũng đắm mình trong tuyết


Làm sao để rửa xe đây?


Mèo đùa giỡn trên mặt bể bơi đã đóng băng


Một cách dọn tuyết đầy sáng tạo


Người ta trượt tuyết ngay trên đường phố


Quả trứng cũng bị đóng băng!


Texas Game Wardens tại  Cameron đã cứu 141 rùa trên biển


Thậm chí vòi nước cũng đóng băng


Thật khó có thể tưởng tượng đây là Texas



***






































 

--> Read more..

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

Ngày này năm xưa: Không thể chối cãi! (17/02/2021)

Người Trung Hoa Đại Lục đã phủ nhận nước họ không phải là nơi phát sinh bệnh dịch toàn cầu mà cho đến nay đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên trái đất. Mặc dầu bệnh dịch thoạt đầu được các phương tiện truyền thông thế giới mệnh danh là Viêm phổi Vũ Hán nhưng họ vẫn một mực khẳng định không thể lấy tên Vũ Hán để gọi bệnh dịch!

Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhất loạt phủ nhận các cáo buộc của giới ngoại giao về việc họ phát tán “tin tức giả” và tạo tin đồn về Viêm phổi Vũ Hán. Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn cáo buộc ngược lại rằng thế lực thù địch nước ngoài cố gắng chính trị hóa dịch bệnh.  

Tháng 3/2020, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Triệu Lập Kiên, liên tiếp đăng 11 tweet trên Twitter, nội dung cáo buộc “quân đội Mỹ tạo ra virus và còn mang virus đến Vũ Hán”. Các “tin tức giả” liên quan được trích dẫn hơn 990.000 lượt với ít nhất 54 ngôn ngữ khác nhau.

***

Tuy nhiên, có một sự thật vào năm 1979 không thể chối cãi vì đã đi vào lịch sử giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc.

Ngày 17/02/1979 nước láng giềng vẫn thường được ca tụng là “bạn 4 tốt và 12 chữ vàng” ("Láng giềng tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Đối tác tốt" và “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”) đã vượt biên giới phía Bắc để “dậy cho Việt Nam một bài học”!

Bài viết “Không mơ hồ “16 chữ vàng” và “4 tốt” trên trang web https://toquoc.vn/khong-mo-ho-16-chu-vang-va-4-tot...  (Chuyên trang Đại hội lần thứ XIII của Đảng) đã phải thốt lên một cách… ai oán:

“Người Việt Nam ta cần nhìn lại mối quan hệ này, xác định một cách minh triết bản chất mối quan hệ ấy, tránh những điều mơ hồ, ngộ nhận. Tránh cái bẫy ý thức tư tưởng có thể gây chập chững về chiến lược, nhập nhằng và mơ hồ giữa các ngôn từ hữu nghị, đối tác, đồng chí, đại cục, v.v... và v.v...”

“Hoàn Cầu Thời Báo” dẫn nguồn Trung Quốc viết về cuộc chiến năm 1979:

“Trong cuộc phản kích tự vệ này, quân ta đã chiếm được Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Quảng Ninh, Hà Tuyên và 21 huyện, thị trấn khác nhau của Việt Nam; tiêu diệt 4 sư đoàn, 7 trung đoàn, 25 tiểu đoàn của Việt Nam. Tổng số binh lính Việt Nam bị tiêu diệt là hơn 50.000 người; 2.173 lính đầu hàng; thu giữ 916 khẩu pháo các loại; 16.000 súng, hỏa tiễn; 236 xe ô tô. Quân ta cũng phá hủy nhiều pháo, xe tăng, xe thiết giáp, thu được thắng lợi huy hoàng”.

Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy. Russell D. Howard thì cho rằng quân Trung Quốc thương vong 6 vạn người, trong đó số chết là 26.000.

Sử gia Mỹ gốc Hoa, King C. Chen, nói phía Trung Quốc có 26.000 quân bị chết và 37.000 người bị thương. Phía Việt Nam có 30.000 binh sĩ bị chết và 32.000 người bị thương. Phía Trung Quốc đã trao trả 1.638 tù binh Việt Nam đổi lấy 260 tù binh Trung Quốc.

Tạp chí Time của Mỹ lại đưa ra con số khá khác biệt: ít nhất 20.000 lính Trung Quốc thiệt mạng, trong khi số bộ đội Việt Nam chết chưa tới 10.000 người.

Henry Kissinger trong cuốn “On China” đã đưa ra một so sánh:

“… PLA [Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc] tiến quân rất chậm và phải trả giá đắt. Theo thống kê của một số nhà phân tích, trong một tháng giao tranh với Việt Nam, số thiệt mạng của PLA ngang với số lính Mỹ bị giết trong những năm tháng khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam”.

Dù theo con số nào thì các nghiên cứu nước ngoài đều cho rằng Việt Nam “trên thực tế đã chiến đấu tốt hơn” quân Trung Quốc và thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, trung bình một ngày mất một trung đoàn, phản ánh chiến thuật biển người của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, sẵn sàng thí quân.

***

Số liệu và thông tin có phần trái ngược nhau, âu cũng là chuyện thường tình. Tuy nhiên, có một điều mà bất cứ người Việt Nam nào cũng phải nhìn nhận: cuộc chiến biên giới phía Bắc năm 1979 là… có thật.

Đó là một trong những sự thật không thể chối cãi và người Việt sẽ còn mãi mãi nhớ đến Cuộc chiến Biên giới phía Bắc năm 1979! 

***

Sơ đồ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc do Trung Quốc phát động ngày 17.02.1979


Báo Nhân Dân


Báo Nhân Dân


Chiến tranh biên giới phía Bắc, 1979


Trong cuộc chiến biên giới Việt-Trung, nhiều binh lính Trung Quốc đã trở thành nạn nhân


Tù binh Trung Quốc


Tù binh Trung Quốc


Tù binh Trung Quốc


Tù binh Trung Quốc


Xe tăng Trung Quốc vượt sông vào Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979


Xe tăng Trung Quốc tại cầu Bản Sảy (Cao Bằng), ngày 17.02.1979


Xe tăng của Trung Quốc bỏ lại khi vấp phải sự kháng cự của quân và dân tỉnh Cao Bằng


Bích chương "Chiến thắng chống Trung Quốc xâm lược" tại Sài Gòn, 1979. Ảnh: Bill Herod


Họa sĩ Nguyễn Thái Tuấn vẽ cảnh giặc Tàu tiến vào Lạng sơn năm 1979

***






























--> Read more..

Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2021

Tết Xưa… Tết Nay…

Tôi lấy cột mốc 1975 để làm ranh giới giữa Xưa & Nay. Ngày Tết Xưa - Ngày Tết Nay cũng bắt đầu từ ranh giới giữa hai chế độ VNCH và XHCN tại Việt Nam.

Đối với một người ngoài 70 thì hồi ức về những mùa xuân mang nhiều sắc thái của từng thời kỳ trong cuộc đời và đến bây giờ ngồi nhớ lại nên vội ghi ngay chứ để lâu hơn nữa thì cái bệnh “nhớ nhớ, quên quên” của tuổi già sẽ dần dần xóa sạch.

Tôi rời Hà Nội năm 1953 để vào Đà Lạt vì khi đó ông cụ thân sinh phục vụ trong Ngự Lâm Quân của vua Bảo Đại. Xứ Hoa Đào lúc đó còn được gọi là “Hoàng triều Cương thổ”, tức là đất của nhà vua, nên rất ít người có cơ hội lui tới.

Như vậy là mới có 8 tuổi đời tôi đã xa Hà Nội chứ không phải như lời bài hát “Nỗi lòng người đi” của nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác năm 1954 khi hơn một triệu người miền Bắc di cư vào Nam: 

“Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu thương thành khói tan theo mây chiều...

Tuổi thơ của tôi trên vùng đất sương mù rất hồn nhiên với những kỷ niệm mỗi độ xuân về. Ngày Tết trẻ con thường hay săn nhặt các viên pháo lép đem về để tự đốt gọi là “vui xuân”. Pháo lép thường chỉ còn sót lại chút ít thuốc pháo nhưng đủ để tạo hiệu ứng ánh sáng khi châm lửa và mùi pháo khi cháy tạo một cảm giác đúng là... mùi Tết!

Tôi cũng đã có lần được xem ông bác gói giò thủ cho ngày Tết. Đó là món không thể thiếu trong ngày Tết đối với những người Bắc di cư. Thật tình mà nói, tôi không “kết” món giò thủ nếu so với giò hay chả vẫn ăn ngày thường.

Đến năm 1963 gia đình tôi lại một lần nữa chuyển sang Ban Mê Thuột cũng vì công vụ của bố. Quãng thời gian trên vùng đất đỏ “bụi mù trời” nhưng có người lại bảo “bé mà thương” vì mang nhiều kỷ niệm của thời mới lớn, chập chững bước vào đời.

 

1963 - Ngày Tết ở Ban Mê Thuột

Kỷ niệm còn nhớ mãi là ngày Tết Mậu Thân, năm 1968. Ngày đó BMT cũng bị tấn công như bao tỉnh thành khác của miền Nam. Lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn những cái xác nằm trên đường, lính của mình cũng có nhưng những người thuộc phe bên kia thu hút nhiều sự chú ý của tôi vì tò mò.

 

1963 - Bữa ăn ngày Tết ở Ban Mê Thuột

 

Rõ ràng họ cũng là người Việt nhưng cách ăn mặc của họ rất khác với những người bên kia chiến tuyến: đầu đội mũ tai bèo, chân đi dép lốp, hay còn gọi là “giép râu”. Chẳng bao lâu sau khi tiếng súng trộn lẫn tiếng pháo nổ ròn khắp nơi, lực lượng tấn công thị xã đã bị đẩy lùi.

Có thể họ là những du kích địa phương nhưng cũng có thể là những thành phần của lực lượng chính quy với khẩu hiệu “sinh Bắc, tử Nam”. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy họ khi  cuộc chiến đấu đã im tiếng súng. Họ chỉ là những cái xác không hồn nằm rải rác trên lề đường nhưng họ vẫn là người Việt Nam!

 

1963 - Bốn anh em quây quần ở  Ban Mê Thuột

 

Bạn bè tôi khi đó cũng có người đã xếp bút nghiên để khoác lên mình bộ quần áo lính. Đa số đều chọn không quân, có người lái Skyraider, C130, trực thăng và cũng có người là phi công phản lực A37.

Tôi nhớ mãi một người bạn thân, sau khi đi được đào tạo tại Hoa Kỳ trở về lái Skyraider và nhân dịp Tết Mậu Thân anh trở về thăm nhà tại BMT. Giao thừa năm đó chúng tôi nghe pháo nổ ran và hình như có cả tiếng súng mà tôi đoán lính bắn chỉ thiên để chào năm mới. Ông bạn phi công của tôi cũng hứng chí rút súng lục bắn lên trời “góp vui” thay pháo!

 

1971 - Ngày Tết ở  Ban Mê Thuột

 

Không ngờ tiếng súng chen lẫn tiếng pháo không bắn lên trời mà bắn trực diện vào các lực lượng tấn công. Đến khi có người hớt hải chạy về từ vùng lửa đạn mới biết đó là tiếng súng giao chiến giữa hai phe. Ngay ngày hôm sau, anh phi công vội vã tìm phương tiện về phi trường Biên Hòa, nơi phi đoàn của anh đặt căn cứ.

Kỷ niệm đêm giao thừa trên BMT chắc chắn sẽ theo anh suốt cuộc đời binh nghiệp. Khi về Sài Gòn chúng tôi vẫn còn thỉnh thoảng gặp nhau và anh chính là “bố nuôi” của đứa con trai đầu lòng của tôi. Năm 1975 anh sang Mỹ, khi đó đã mang cấp bậc Đại úy và chỉ mới đây vài năm có tin anh đã từ trần.

R.I.P. người bạn thân thiết đã từng một thời là bạn văn nghệ ca hát trong ban nhạc thời trung học và cũng là một trong những người bước vào quân ngũ sớm nhất thuộc lứa tuổi chúng tôi.

Ở Sài Gòn, tôi cũng bị động viên vào Thủ Đức, ra trường về làm giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội. Tôi có thời gian sống tại nhà người bà con và cũng cảm thấy nhớ nhà mỗi khi xuân về vì gia đình chưa về Sài Gòn. Ngày Tết trường Sinh ngữ cũng cấm trại dù thuộc đơn vị không tác chiến. Đời nhà binh là vậy!

 

1972 - Ngày Tết ở Cống Quỳnh, Sài Gòn

 

Thế rồi năm 1975 Sài Gòn thất thủ, với cấp bậc Trung úy, tôi phải đi cải tạo. Cái Tết trong tù mang nhiều kỷ niệm của một thời điêu linh. Tết Cải Tạo đầu tiên là ở Trảng Lớn, và niềm vui duy nhất là... “ngày nễ nớn, ăn thịt nợn”.

Mang tiếng là thịt nhưng chỉ là một miếng mỡ to bằng 2 đầu ngón tay! Thật tình khi ăn vào, bao tử vốn đã không quen với chất thịt nên có nhiều bạn tù sinh đau bụng chỉ vì một miếng mỡ heo. Thế mới biết, không những “miếng ăn là miếng tồi tàn” mà còn mang hại vào thân!

 

1973 - Ngày Tết ở Cống Quỳnh, Sài Gòn

 

Năm 1978, sau khi ở Trảng Lớn rồi Trảng Táo, tôi ra trại cải tạo để thực sự bắt đầu một cuộc sống điêu linh, chẳng khác gì từ một cái hộp nhỏ sang… hộp lớn! Ngày Tết “Mừng Đảng, Mừng Xuân” được mua nhiều món đặc biệt tại các Cửa Hàng Tết nhưng không phải muốn mua gì thì mua mà phải có tem phiếu của nhà nước.

Thịt thà, vải vóc, nhu yếu phẩm được bán “nhỉnh” hơn ngày thường, người ta chen nhau trước cửa hàng Tết mỗi khi tổ dân phố thông báo… có hàng Tết. Đó là niềm vui trong dịp xuân về, nhưng để có được niềm vui đó đầu tiên là phải có tiền rồi lại phải kiên nhẫn… “xếp hàng cả ngày” chờ đến phiên!

Tết đầu tiên sau khi ra trại tôi phải kéo cả gia đình sang nhà bà chị họ ở Khánh Hội để “ăn Tết ké” vì bà chị có cửa hàng trong chợ Bình Tây nên tương đối “dễ thở” hơn. Bốn đứa con tôi vừa được tiền lì xì lại vừa được ăn bánh mứt, dưa hấu nên chúng hớn hở… vui như Tết!

 

1979 - Ngày Tết ở Khánh Hội, Sài Gòn

 

Bố chúng thì méo mặt lo kiếm ăn hàng ngày thì tiền có dư giả đâu mà sắm Tết. Quần áo thì đã có bà cô ở Cống Quỳnh lo vì bà có một tiệm nay áo dài. Vải thừa, vải vụn bà gom lại để may áo mới cho các cháu diện Tết. Thế cũng đủ làm chúng… vui như Tết!

Thời gian đã thay đổi thật nhiều, từ một gia đình nhỏ với đứa con trai đầu lòng ở Ban Mê Thuột chúng tôi đã “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vũng chắc” khi về Sài Gòn với thêm 3 cô con gái. Tổng “quân số” hiện đang ở mức 15 thành viên vừa con, vừa dâu-rể và 5 đứa cháu nội ngoại.

 

2009 - Tết Kỳ Sửu, Sài Gòn

 

2014 - Tết Giáp Ngọ, Sài Gòn

 

2015 - Tết Ất Mùi, Sài Gòn

 

2016 - Tết Bính Thân, Sài Gòn

 

2017 - Tết Đinh Dậu, Sài Gòn

 

2018 - Tết Mậu Tuất, Sài Gòn

 

Thời cuộc cũng thay đổi khiến các thành viên tứ tán khắp nơi và chỉ hội tụ vào dịp xuân về. Ngoại trừ Tết năm nay, do tình hình dịch bệnh nên chỉ còn gặp nhau trên mạng qua video calls nhưng vẫn luôn đầy ắp tiếng cười vì… Vui Như Tết!

 

*** 

--> Read more..

Popular posts